“Khai mở” bản thân để sống trẻ

28-07-2018 09:37 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Tôi vốn có mối quen thân từ lâu với GS.TSKH. Đào Vọng Đức mà hầu như không khi nào được nghe ông kể về mình - những thành đạt trong nghiên cứu và giảng dạy. Nhưng danh tiếng của ông trong khoa học thì nhiều người biết và ngưỡng mộ.

ng sinh năm 1936, quê Tùng Châu, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Từ bé, nổi tiếng học giỏi, đặc biệt về môn toán. Năm 1956, đích thân GS. Tạ Quang Bửu khi ấy là Phó chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Ủy ban Khoa học Nhà nước đã tuyển chọn những học sinh tốt nghiệp phổ thông có triển vọng về khoa học cơ bản đưa sang học tại trường  danh tiếng nhất của Liên Xô là Đại học tổng hợp Lomonosov để nhờ nước bạn đào tạo thành tài trở về xây dựng đất nước. Một thời, giới học thuật hay nhắc đến “ba chàng ngự lâm pháo thủ”, đó là ba nhà vật lý trẻ ngày ấy: Đào Vọng Đức, Cao Chi, Đoàn Nhượng. Về sau, chính GS. Tạ Quang Bửu đã chọn bộ ba này chuyển sang Viện Liên hợp nghiên cứu hạt nhân Đupna (Liên Xô) để làm việc với những nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của các nước xã hội chủ nghĩa. Trước lúc lên đường, giáo sư đã ân cần căn dặn: Học vị không phải là cái quan trọng nhất mà các anh nhất thiết phải theo kịp trình độ khoa học tiên tiến, sau này tìm cách đưa nền khoa học Việt Nam tiến lên toàn diện. Nhà vật lý trẻ Đào Vọng Đức đã làm theo lời căn dặn ấy, chỉ trong thời gian không lâu khi làm việc trên đất bạn, rồi trở về nước, ông đã trở thành một nhà nghiên cứu có uy tín trong nhiều lĩnh vực của vật lý năng lượng cao như: Lý thuyết đối xứng các hạt cơ bản, lý thuyết thống nhất các tương tác hạt cơ bản, lý thuyết dây và siêu dây lượng tử, máy tính lượng tử, thông tin lượng tử... Ông đã công bố khoảng 100 công trình khoa học trên các tạp chí trong nước, quốc tế. Trong giảng dạy đào tạo, từ lâu ông trở thành một giáo sư nổi tiếng uyên bác, chủ biên hàng chục giáo trình đại học và sau đại học, hướng dẫn thành công nhiều nghiên cứu sinh tiến sĩ, thạc sĩ. Ông từng là Viện trưởng Viện Vật lý Việt Nam; Phó chủ tịch Hội Vật lý Việt Nam nhiều khóa và năm 1988, ông được bầu là viện sĩ Viện Hàn lâm Thế giới thứ ba.

GS. Đào Vọng Đức (bên trái) và tác giả.

GS. Đào Vọng Đức (bên trái) và tác giả.

Bên cạnh việc công bố các công trình khoa học, ông còn viết sách. Hiện ông đã có hàng chục đầu sách đều thuộc chuyên môn sâu và hẹp của vật lý lý thuyết. Sách không dành cho người đọc bình thường nhưng vì trân trọng tình bạn, mỗi khi ra cuốn nào mới ông đều tặng tôi. Tôi có ấn tượng với cuốn Từ Thuyết Lượng tử đến máy tính lượng tử (NXB Khoa học và kỹ thuật, 2013) ông viết chung với một học trò là TS. Phù Chí Hòa (Đại học Đà Lạt). Trong lời nói đầu, tác giả viết: “Bản thảo được hoàn thành trong dịp đại lễ Vu Lan báo hiếu truyền thống. Các tác giả xin thành kính dâng tặng anh linh các bậc phụ mẫu...”. Tôi hiểu, với ông, làm ra được công trình hay tác phẩm là để trả nghĩa cho đời, báo hiếu với cha mẹ. Từ lâu, ông nén trong lòng một nỗi đau, vào thời kỳ chiến tranh phá hoại bằng không quân của  Mỹ trên miền Bắc, thân phụ và thân mẫu của ông cùng bị tử nạn tại quê vì bom giặc, vì thế, mỗi khi có được thành tựu khoa học cũng là làm vơi đi phần nào nỗi đau thương ấy. Trong tác phẩm trên, tác giả viết lời đề tặng tôi thật chân tình: “Thân mến tặng nhà báo, nhà văn Phạm Quang Đẩu, kỷ niệm tình bạn lâu năm - 30/12/2013”. Quả là khi giở những trang sách của ông, ngoài lời giới thiệu và nhập đề ai cũng có thể hiểu, còn phần chuyên môn tôi chỉ biết “kính nhi viễn chi”. Tôi hiểu đằng sau những thành tựu nghiên cứu và khảo cứu khoa học của ông là cả một quá trình làm việc đầy sức sáng tạo không ngừng nghỉ trong nhiều năm tháng. Đó còn là một quá trình phấn đấu bền bỉ vượt qua bệnh tật, tuổi già cùng nỗi cô đơn của ông.

Do những trắc trở trong đời tư mà từ nhiều năm nay, ông sống đơn thân trong một căn nhà dành cho các nhà khoa học đầu ngành được xây từ thời bao cấp ở cuối phố Đội Cấn (Hà Nội). Bởi có một mình nên căn nhà càng trở nên rộng thênh thang. Luôn có những đồng nghiệp đến đàm đạo và những học trò đến thăm hỏi thầy. Qua những lần tâm sự, tôi không khi nào thấy ông tỏ ra bi quan, buồn nản. Dễ nhận ra nghị lực và đức tính lạc quan yêu đời qua nếp sinh hoạt hằng ngày của ông - một con người giản dị và trung hậu. Thường xuyên đọc sách, báo, nghiền ngẫm và viết, đã có nhiều công trình khoa học được ra đời trong căn nhà im ắng, ít tiện nghi sinh hoạt ấy. Trong gian buồng cạnh nơi ông ngồi viết có đặt một cây đàn piano, ông bảo lúc cần làm cho đầu óc thư thái, thoát khỏi những con số khô khan, ông thường dạo một bản nhạc nào đó. Ông còn biết chơi đàn đáy và quen với nhóm ca nhạc dân tộc, thỉnh thoảng lại cùng họ biểu diễn các buổi hát chầu văn cho đông đảo công chúng thưởng thức tại Bảo tàng Dân tộc học hay một phòng hát nhỏ nào đó ở Hà Nội...

Giờ ở tuổi ngoài tám mươi ông vẫn rất minh mẫn, nhanh nhẹn, làm chuyên môn, hướng dẫn nghiên cứu sinh hay đi thỉnh giảng ở các trường đại học ngoài Bắc, trong Nam. Từ nhiều năm nay, ông còn đảm nhiệm cương vị Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam. Đây đã trở thành nơi nghiên cứu về các vấn đề tâm linh có hệ thống, bài bản khoa học vào bậc nhất ở nước ta hiện nay. Giữ được sức khỏe để làm việc có hiệu suất như vậy là nhờ ông có cách tập trung tư tưởng “thể dục trí não”, thực hành đều đặn việc thiền - yoga. Yoga giờ không còn xa lạ với nhiều người. Ngày Quốc tế Yoga (21/6) đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thành lập nhằm tôn vinh lợi ích của yoga đối với sức khỏe của con người, khuyến khích tập luyện yoga trên toàn thế giới nhằm phòng ngừa bệnh tật và giúp gắn kết cộng đồng. Nhiều buổi đến thăm, tôi đã được nghe ông giảng giải một cách khúc triết, dễ hiểu về yoga và các dạng “tiềm năng con người”. Ông còn  khẳng định, chúng có mối quan hệ khăng khít với những gì thuộc về cõi tâm linh của con người.

Là một chuyên gia hàng đầu về vật lý lượng tử, ông vận dụng lý thuyết này vào nghiên cứu, giải thích các hiện tượng tâm linh. Chẳng hạn, trong một buổi thuyết trình tại Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, ông đã chỉ ra rằng, lịch sử phát triển khoa học cũng cho thấy những phát minh lớn có được không chỉ dựa vào lý trí và lập luận logic thuần túy mà còn bằng cả những nhạy cảm thẩm mỹ và sự hỗ trợ của những yếu tố trực giác và cảm hứng... Rồi ông hướng dẫn tôi thực hành việc khai mở các “luân xa” trên cơ thể mình để đón nhận năng lượng từ trời đất. Ông bảo, chính trong lúc thực hành thiền sâu, nhiều vị thiền sư đã đạt được trạng thái không còn ảo giác thời gian trôi, vạn vật dường như đóng băng trong thời gian. Theo ông, vật lý học hiện đại hình dung thời gian trong tổng thể như “thời cảnh”, trong đó các sự kiện được gắn vào các thời điểm cố định, cũng tương tự hình dung không gian như một phong cảnh, trong đó các vật thể được đặt ở các vị trí xác định. Thế kỷ 21 này sẽ đánh dấu một bước tiến vĩ đại về trí tuệ, đó là nhận thức được rằng khoa học và tâm linh không hề đối nghịch nhau mà là hai mặt đối ngẫu bổ sung cho nhau để nghiên cứu thực tại. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với khẳng định của A. Einstein - người có công đầu khai sáng Thuyết Tương đối và Thuyết Lượng tử, rằng khoa học, tôn giáo, nghệ thuật là “các cành nhánh của cùng một cây” và “cái đẹp nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm được chính là cái bí ẩn”.

Hàng ngày, buổi sáng và lúc sắp đi ngủ, ông tập trung tư tưởng hàng giờ liền để tập thiền và tự khai mở “luân xa”. Kiên trì luyện tập từ nhiều năm nay, thiền-yoga đã thành thói quen như cơm ăn nước uống hàng ngày, giúp cho tinh thần ông luôn giữ được sự an nhiên tự tại và nhờ vậy, mặc nhiên ông đã có căn cốt sâu sắc của một thiền sư, chỉ khác là ông không phải tu sĩ mà luôn sống hòa đồng với mọi người. Ông còn hay giúp đỡ người khác trong việc thực hành việc “quán tưởng ý nghĩ” để chữa bệnh, giữ gìn sức khỏe. Tôi đã nghe một vị giáo sư ở Đại học Bách khoa Hà Nội kể, ông cùng quê Đức Thọ (Hà Tĩnh) với GS. Đào Vọng Đức, có thời kỳ nghe tin vợ ông bị một căn bệnh mạn tính, thế là nhiều ngày GS. Đào Vọng Đức đã không quản đường xa, đạp xe đến giúp vợ ông chữa bệnh bằng cách “truyền năng lượng” và đã đạt được hiệu quả nhất định. Cũng cần nói thêm: GS. Đào Vọng Đức không có thói quen đi xe máy, ông thường đi thăm bạn bè hay đến lớp giảng dạy bằng chiếc xe đạp tòng tọc. Ông bảo, đạp xe cũng là một cách tập thể thao.

Lâu nay, tôi đã trở thành một “môn đệ” của GS. Đào Vọng Đức trong việc thực hành thiền-yoga. Song tôi biết sự khai mở trong con người tôi là rất hạn chế. Còn người bạn vong niên vô cùng khiêm nhường, giản dị của tôi thì đã đạt được những thành tựu đáng kính nể. Ông đang chống lại một cách có hiệu quả với tuổi già, bệnh tật và sự cô đơn bằng nghị lực tập luyện nghiêm túc, chuyên cần. Mừng cho sự thành công và sức khỏe của ông biết bao!


Bài, ảnh: PHẠM QUANG ĐẨU
Ý kiến của bạn