Phản ứng hạt nhân và chất phóng xạ
Các chất đều có cấu tạo nguyên tử. Nguyên tử là những phần tử vô cùng nhỏ bé, không thể phân chia ở những phản ứng hóa học thông thường. Chúng có cấu tạo bao gồm một hạt nhân mang điện tích dương, xung quanh có các điện tử quay với những quỹ đạo khác nhau. Bình thường nguyên tử trung hòa về điện. Tuy nhiên trong các lò phản ứng hạt nhân, khi nguyên tử urani hoặc plutoni hấp thụ một neutron, nó có thể trải qua phản ứng phân hạch hạt nhân để tách thành nhiều hạt nhỏ hơn. Phản ứng phân hạch sản sinh một lượng nhiệt lớn cùng với nhiều neutron mới. Những neutron mới tiếp tục bắn phá nguyên tử urani hoặc plutoni để tạo nên phản ứng dây chuyền. Năng lượng nhiệt do phản ứng tạo ra khiến nước sôi và bốc hơi được dùng làm quay các turbin và tạo ra điện. Theo thời gian, nhiên liệu hạt nhân biến thành nguyên tố nhẹ hơn và không thể gây nên phản ứng phân hạch. Nếu không được tái chế hoặc làm giàu, chúng sẽ trở thành chất thải hạt nhân. Khi lò phản ứng hạt nhân gặp sự cố, các hệ thống làm lạnh trục trặc, nhiệt độ trong lò sẽ nóng lên quá mức, đặc biệt khi nhiệt độ lên quá cao, vỏ kim loại bọc quanh nhiên liệu uranium của lò phản ứng tan chảy các chất phóng xạ caesium và iodine sẽ theo hơi nước thoát ra ngoài. Tại Chernobyl, mọi vụ nổ đều phơi lõi của lò phản ứng ra không khí và hỏa hoạn kéo dài nhiều ngày đã đẩy chất phóng xạ vào khói bụi bốc lên bầu trời, các chất phóng xạ đã phát tán theo không khí, nguồn nước cũng như động thực vật gây ô nhiễm nặng nề cho môi trường.
Khi uống, iod kali sẽ đọng lại ở tuyến giáp. Khi iod phóng xạ xâm nhập vào cơ thể sẽ không bị đọng lại và bị đào thải khỏi cơ thể. Ảnh: doctissimo.fr. |
Cần làm gì để tránh phơi nhiễm phóng xạ?
Ngay khi một lò phản ứng hạt nhân gặp sự cố, một lượng lớn phóng xạ có thể thoát ra ngoài. Quá trình phân rã của urani và pluton trong lò phản ứng hạt nhân đã sinh ra nhiều chất đồng vị phóng xạ. Nếu bị thoát ra ngoài các chất phóng xạ sẽ phát tán theo gió bụi, nguồn nước, động thực vật… gây ô nhiễm môi trường. Nếu tiếp tục với cường độ lớn chất phóng xạ, người ta sẽ bị bỏng da, thậm chí có thể tử vong. Nếu tiếp xúc ngoài với các tia gamma, hoặc nuốt phải chúng nếu ăn thực phẩm và nước nhiễm xạ, cơ thể sẽ không cảm nhận được nhưng sẽ gây hậu quả nặng nề cho sức khỏe. Thảm họa Chernobyl năm 1986 đã khiến rất nhiều người bị ung thư tuyến giáp. Caesium phóng xạ tích lại trong mô mỏng, không tồn tại được lâu trong cơ thể - phần lớn mất đi trong vòng một năm. Tuy nhiên, nó tồn tại trong môi trường và có thể tiếp tục là một vấn đề trong nhiều năm. Còn plutonium tích trong xương và gan. Nitrogen phóng xạ phân rã ngay sau khi thoát ra vài giây. Lượng phóng xạ này còn được xuất hiện dưới dạng iod phóng xạ, và sẽ ảnh hưởng đến dân cư xung quanh khu vực bị nhiễm xạ. Loại iod độc hại này có xu hướng đọng lại ở tuyến giáp, do vậy làm tăng nguy cơ xuất hiện hạch tuyến giáp cũng là các tế bào ung thư. Hoặc ung thư tuyến giáp cũng có thể xảy ra do triệu chứng suy chức năng của tuyến.
Dùng iod kali khi nào và bao nhiêu? Viên iod kali (iodure depotassium) ở dạng viên nén, phải uống ngay lập tức sau khi biết khu vực sống bị nhiễm phóng xạ. Để giảm được 90% nguy cơ nhiễm phóng xạ, liều lượng cần thiết là tùy thuộc vào đặc điểm thiếu hụt iod ở từng địa phương, người ta có thể dùng liều từ 30-130mg. Thời điểm tốt nhất là uống ngay sau khi có cảnh báo về phóng xạ thì mới có hiệu quả gần 100%. Trong những vùng được cho là “giàu iod”, 2 giờ sau khi bắt đầu bị nhiễm phóng xạ thì hiệu quả chỉ còn 80% và 40% sau 8 giờ. Trong những vùng “nghèo iod” uống thuốc sau 2 giờ hiệu quả gần 65% và sau 8 giờ còn 15%. |
BS. Bùi Hiền