Hỏi: Cây hy thiêm được dùng chữa bệnh gì? Có tác dụng giống với cây cứt lợn không?
(Lê Văn Dũng - Bình Phước)
Trả lời: Hy thiêm còn gọi là cỏ đĩ, cứt lợn, hy kiểm thảo, hy tiên, niêm hồ thái, chư cao, hổ cao, chó đẻ, nụ áo rìa.
Tên khoa học Siegesbeckia orientalis L. (S. glutinosa Wall., Minyranthes heterophylla Turcz.).
Thuộc họ Cúc Asteraceae Compositae.
Cây này đầu tiên thấy dùng ở nước Sở (một nước cổ ở miền Nam Trung Quốc) dân nước này gọi lợn là hy, gọi cỏ đắng cay có độc là thiêm, vì khí vị cây này như mùi lợn, do đó có tên. Chữ cứt lợn là dịch nghĩa Việt của tên cây, nhưng chỉ cần chú ý tên cứt lợn còn dùng chỉ một cây khác thuộc họ Cúc để tránh nhầm lẫn khi sử dụng.
Tên cỏ đĩ vì hoa cây này có chất dính, khi người ta đi qua, nó dính theo người ta.
Hy thiêm thảo (Herba Siegesbeckiae) là toàn cây hy thiêm phơi hay sấy khô.
Mô tả cây
Cỏ sống hàng năm, cao chừng 30 - 40cm, đến 1m, có nhiều cành, có lông tuyến. Lá mọc đối cuống ngắn, hình 3 cạnh hay thuôn hình quả trám, đầu lá nhọn, phía cuống cũng thót lại, mép có răng cưa, mặt dưới hơi có lông dài 4 -10cm, rộng 3 - 6cm. Cụm hoa hình đầu, màu vàng, cuống có lông tuyến dính. Có 2 loại lá bắc không đều nhau: lá bắc ngoài hình thìa dài 9 - 10mm, mọc tỏa ra hình sao, có lông dính, các lá bắc trong dài 5mm, hợp thành 1 tổng bao tất cả đều mang lông tuyến dính. Quả bế đen hình trứng 4 - 5 cạnh dài 3mm, rộng 1mm.
Mùa hoa tháng 4 - 5 đến 8 - 9, mùa quả các tháng 6 - 10.
Phân bố thu hái và chế biến
Cây này mọc hoang ở khắp các tỉnh trong nước ta. Có mọc và được dùng cả ở Trung Quốc, Nhật Bản, châu Úc, Philippines và nhiều nước khác. Tác dụng chữa bệnh nhanh chóng nên có nước gọi nó là “cây chữa bệnh nhanh”, “cỏ của trời”.
Vào các tháng 4 - 5 hay tùy từng địa phương hái vào lúc cây chưa ra hoa, đem về phơi khô trong mát hay ngoài nắng, bó thành từng bó nhỏ.
Công dụng và liều dùng
Theo tài liệu cổ, hy thiêm vị đắng, tính hàn, hơi có độc vào 2 kinh can và thận. Có tác dụng khử phong thấp, lợi gân cốt. Chữa chân tay tê dại, lưng mỏi, gối đau, phong thấp. Những người tê đau mà do âm huyết không đủ không dùng được. Hiện nay vị thuốc mới được dùng trong phạm vi nhân dân, làm thuốc chữa đau nhức, tê thấp, nhức xương, yếu chân, bán thân bất toại gân cốt nhức lạnh, lưng gối tê dại.
Còn dùng giã đắp tại chỗ chữa nhọt độc, ong đốt, rắn cắn.
Ngày dùng 6 - 12g dưới hình thức thuốc sắc, thuốc viên hay thuốc cao mềm. Có thể tăng tới liều 16g ngày.
Chú ý:
Trong Bản thảo cương mục có ghi dùng cây này phải nấu và phơi chín lần mới tốt, dùng tươi có thể gây nôn mửa.
Đừng nhầm cây này với cây cứt lợn (Ageratum conyzoides L.,) nhân dân ta vẫn dùng nấu với bồ kết để gội đầu và vò uống lá tươi chữa bệnh đẻ xong máu chảy không ngừng hay bệnh rong kinh.
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)
của GS. ĐỖ TẤT LỢi