Con gái Chăm ở Bầu Trúc, Ninh Phước biết làm gốm từ nhỏ. Những đôi mắt to đen của bao cô bé như biết cười với đất và luôn hát ca cùng gió hun hút trên đồi cát.
Đến với Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, ai cũng phải mềm lòng vì những chùm nho tím ngọt lịm, vì nắng vàng như rượu. Nhưng cũng không khỏi ngỡ ngàng vì những đôi mắt Chăm chạm khắc lên mặt gốm hồng, như một trời sao lấp lánh khắp làng Bầu Trúc. Cách thị xã Phan Rang chừng 10 cây số, đó là một phường gốm cổ nguyên sơ, đầy bản ngã, thô ráp như thuở ngàn năm xưa, chẳng một chút đổi thay. Những bước chân của các cô gái Chăm có sự ám ảnh kỳ lạ bởi họ níu kéo thời gian như ngừng trôi. Thế giới như trẻ lại sau muôn vàn vòng quay ngược chiều kim đồng hồ theo bàn chân của các cô gái.
Lần này tôi về làng Bầu Trúc theo lời hẹn của nghệ nhân Đàng Thị Phan, cách đây đã bảy năm, khi bà trình diễn nghệ thuật làm gốm của người Chăm tại Hà Nội. Nghe nói sau lần gặp gỡ đó, bà còn mang đất của làng đi Nhật, Malaixia và Ấn Độ, vào năm 2005 để làm hàng cho người ta tận mắt thấy. Đúng là lạ. Gốm Chăm độc đáo nhất thế giới ở chỗ con người chính là bàn xoay, và phải nung gốm bằng củi, rơm, trấu ở ngoài trời. Tôi vừa bước vào nhà, biết là mình đã lỡ một mẻ hàng đang ủ trong than hồng. Bà cười nhưng lại có ý trách tôi không về đúng lúc đốt lửa, theo lời hẹn năm nào. Cả hai đều tiếc rẻ, nhưng bà vội dẫn tôi vào trong nhà xem con trai bà đang thực hiện bức phù điêu về hình tượng một người mẹ Chăm đi dự hội lễ Ka-tê.
Tôi ngạc nhiên vì nghe nói, ở làng con trai làm gốm hiếm lắm, từ xưa chỉ có đàn bà con gái mới mó tay vọc đất. Hơn nữa, nơi đây vẫn còn giữ một số quy định của chế độ mẫu hệ, như con trai phải lấy họ mẹ, con gái cưới chồng. Người chồng phải ở rể hàng năm trời, lao động giúp việc cho nhà vợ, không có quyền hành gì. Vậy mà giờ đây, anh chàng Đàng Năng Tự đã theo nghề mẹ, làm gốm, dựng tượng và trợ giúp mẹ bán hàng. Nhìn dãy tượng được sắp xếp khắp nơi trên sân, tôi như bị các cặp mắt tượng thôi miên vậy. Đàng Năng Tự khoe, đây là những tác phẩm anh làm theo mẫu của ông cậu ruột, là nhà điêu khắc nổi tiếng Đàng Năng Thọ. Thấy tôi cứ mải mê ngắm và trầm trồ trước các bức tượng, nghệ nhân Đàng Thị Phan nheo mắt cười rồi nói:
" - Bây giờ cả làng này làm hàng mỹ thuật rồi. Khách du lịch đến mua nhiều. Ai có nhiều hàng đẹp là giầu to chú ạ".
Rồi bà ngước đôi mắt đặc quánh chất Chăm, to đen, đuôi nheo dài trên nền da nhàn nhạt nâu sạm, tâm sự với tôi nhiều chuyện về sự đổi mới của làng quê. Khi nhắc đến hoạ sĩ Đàng Năng Thọ, được nghe bà kể tôi mới hay, như bao đứa trẻ trong làng, cậu bé Đàng Năng Thọ cũng bắt đầu từ đất của cái làng này; lớn lên và trở thành một tài năng xuất chúng. Giờ đây, Đàng Năng Thọ là niềm tự hào của làng, và được nhiều thanh niên đến học nghề làm tượng.
Tôi nhìn bức tượng tháp chàm trầm mặc ở cuối vườn, không hiểu sao những câu thơ của Chế Lan Viên bỗng dội về từ trong tâm khảm. Những câu thơ u hoài và nuối tiếc về sự mất mát những mảnh hồn Chăm xa xưa, trong lịch sử. Tôi đã thuộc nó từ ngày cắp sách và đã quên đi trong dĩ vãng. Vậy mà giờ đây, gặp đôi mắt Chăm của mẹ Phan, ngắm biểu tượng tháp chàm của Đàng Năng Tự, tôi bỗng nhớ lại: "- Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi. Những đền xưa đổ nát dưới thời gian. Những sông vắng lê mình trong bóng tối. Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than"
(Trên đường về)
Dù ông không phải là người Chăm, nhưng lại thẫm đẫm hồn Chăm. Tập thơ "Điêu Tàn" của ông nói lên điều đó. Chàng thi sĩ tài hoa ngày ấy đã "hoá" đời mình cùng Chăm, sẻ chia cùng những khổ đau, tuyệt vọng, qua hàng chục tuyệt phẩm thi ca. Chẳng ai có thể quên bài "Đêm xuân sầu" của ông, với khổ thơ:
"Trên đồi lạnh, tháp Chàm sao ủ rũ? Hay hận xưa muôn thuở vẫn chưa nguôi? Hay lãnh đạm, Hời không về tháp cũ? Hay xuân sang, Chiêm nữ chẳng vui cười?"
Có tới bốn hỏi trong một khổ thơ. Đó là sự ẩn ức trong con tim tuyệt vọng và ngơ ngác với thân phận tàn phai. Chăm của Chế là vậy!?
Nhưng giờ đây, qua bao cuộc bể dâu, Chăm khác xưa rồi. Mới rồi! Mới với nụ cười của trẻ thơ chạy dọc con đường làng. Mới với mẹ Phan cùng người con trai, hoạ sĩ Đàng Năng Tự, cùng ngôi tháp hồng lên trong nắng. Chăm mới với Đàng Năng. Tượng Chăm đi khắp thế giới, như mọc cánh vậy, bay sang các nước, ngự ở các bảo tàng Đức, Anh, Ý...
Anh Đàng Năng Tự. |
Tôi lững thững đi về phía cuối vườn ngắm bức tượng vũ nữ Chăm, với nhiều cảm xúc khó tả. Bởi lẽ, nếu không đến đây, cái làng gốm cổ này và nếu không sải bàn chân lên những trảng cát trắng của Ninh Phước, thì thật khó hình dung màu sắc Chăm ra sao.
Bất chợt khi bước vào phòng làm tượng của Đàng Năng Tự, tôi thấy một cuốn sách, bìa màu đất, khá dày dặn, nằm trên giá gỗ. Đó là cuốn "Văn hoá-xã hội Chăm" của Inrasara, một nhà thơ và là nhà nghiên cứu dân tộc Chăm. Quê ông ở cách làng Bầu Trúc chỉ một con đường. Đó là làng dệt thổ cẩm Mỹ Nghiệp. Đàng Năng Tự kể rằng, nhà thơ Inrasara hiện đã lập một bảo tàng văn hoá Chăm ngay tại nhà mình. Tuy nhỏ nhưng nhà thơ đã sưu tầm được nhiều di vật cổ của người Chăm. Có thể nói nhà thơ là người nghiên cứu và viết sách về văn hoá Chăm sâu sắc và nhiều nhất hiện nay.
Sau đó Đàng Năng Tự còn đưa cho tôi xem tập thơ "Tháp Nắng" của ông. Tôi bất chợt giở vài trang rồi dừng lại ở bài thơ "Quê hương". Sao cũng ngậm ngùi làm vậy. Một phiên bản của Chế chăng? Những khổ thơ, câu thơ của ông cứ lướt nhanh, với những tâm trạng day dứt, hồ nghi: "đang rời bỏ hạt mầm chưa nguội đang quay lưng đường cày chực thức”. Hay như: "màu nắng chung nhưng tôi-em linh hồn ngoảnh mặt. Như chưa từng khổ đau".
Tôi đã nhớ ngay câu thơ mới của ông với sự lắng đọng hồn Chăm. Và nó làm tôi ngẩn ngơ hoài: "Quỳ gối trước mặt trời thức giấc mỗi sớm mai". Có lẽ gốm của Tự cũng nói lên điều đó. Có những cô gái múa điệu Chăm. Cũng có cô gái còng lưng bên lò gốm. Nhưng còn có những cô gái quỳ trước mặt trời và nguyện cầu hạnh phúc, trong nghi lễ cưới. Thế là tự thơ cảm xúc của Inrasara đã lan truyền sang những bức tượng đất mầu hồng, điểm tô cho vườn tượng thật kỳ bí.
Lúc này, mẹ Phan cùng cô con gái mới đi chợ về dọn dẹp sân, chuẩn bị cho công việc dỡ hàng trong đống tro tàn còn ấm nóng. Tôi ngồi bên cạnh Đàng Năng Tự và học cách im lặng thật đúng chất Chăm. Trầm lắng nhưng không buồn. Nhìn và nghĩ bằng ánh mắt. Nhiều cặp mắt tượng của Tự suy tư là vậy nhưng lại chuyển động trong nhịp Chăm cùng gió cát. Đôi mắt của Tự cũng thế. Tôi thấy ấm áp và gần gũi biết bao.
Một làn gió từ con sông Quao ùa tới. Tôi dứng dậy cùng mẹ Phan kéo những bình lọ ra khỏi tro tàn. Đó là những lu, hũ, nồi, chậu, bình lọ quen thuộc của làng gốm. Bỗng nhiên người con gái hát một câu bằng tiếng Chăm, nói lên sự tạ ơn từ đất và cát của sông Quao đã cho mọi người miếng cơm manh áo. Mà đất sét ở con sông này lạ lắm. Nó phải được trộn với cát sông Lu thì mới làm nên nét duyên gốm Bầu Trúc. Người ta còn nói, sau khi khai thác hết đất sét, dân làng lấp lại, trồng nho. Chỉ 5 năm sau, đất trồng cây lại hoá thành đất sét để làm gốm. Lời hát trong bài ca tạ ơn trời đất của cô gái thật lay động biết bao. Tôi vội cầm một chiếc bình lên vì thấy hình vò rượu đỏ au như có men của nho vậy. Mẹ Phan dặn dò con gái về mầu sắc của các mặt hàng. Tôi nghe như rót vào tai và có cảm giác như mẹ đang nói với chính tôi rằng, khi chín tới, gốm Bàu Trúc có mầu sắc đặc trưng vàng đỏ, đỏ hồng, đen xám, bợt nâu... Chắc đất sông Quao là thế, qua lửa và bàn tay của mẹ đã làm nên mảnh hồn làng Chăm độc đáo. Thật tự nhiên như bao đời nay.
Tôi lắng nghe. Có âm thanh nào đó bí ẩn lắm, u...u... vang lên trong tôi. Hay đó là những lời ca não nùng của Chế Linh ngậm ngùi nơi xa xứ. Một giọng hát Chăm làm xao xuyến bao trái tim yếu đuối của các cô gái. Không hiểu sao giọng hát đầy ẩn ức ấy lại vang lên trong tâm tưởng tôi lúc này. Có lẽ hồn Chăm ấy đã trở về sau 30 năm xa xứ chăng? Đời lữ khách Chế Linh giờ hẳn đã niềm nở hơn và dịu dàng hơn, khi hát về quê hương. Những âm thanh vô thường từ hư không, long lanh như những hạt ngọc trong veo, hút theo chiều gió thổi bay tàn tro, làm lộ ra những bình gốm khoe sắc hồng Tôi đứng lặng giữa sân như muốn trầm mình trong nắng vàng óng như mật của chùm nho Phan Rang thơm đầy bụi phấn. Và tôi, trong con tim đã ấp ủ một lời hẹn với Bầu Trúc xa xôi này, giống như nhà thơ Inrasara đã "Giấu chút nắng quê hương vào túi - Làm hành trang mai mốt tìm về".
Vương Tâm