Hội chứng ngừng thở lúc ngủ là một bệnh lý thường gặp, gây nhiều biến chứng nguy hiểm và bệnh rất khó được tự phát hiện vì dấu hiệu ngừng thở chỉ xảy ra khi ngủ. Hội chứng ngừng thở khi ngủ (HCNTKN) là rối loạn đặc trưng bởi sự ngừng thở hoàn toàn khoảng 10 - 30 giây trong khi ngủ và nhiều hơn 30 lần/đêm dẫn tới tình trạng thiếu ôxy máu. Trước đây, HCNTKN thường ít được quan tâm. Nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển y học, hội chứng này ngày càng được quan tâm và đạt được nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị. Tuy nhiên ở Việt Nam, HCNTKN vẫn chưa được bệnh nhân, thầy thuốc hiểu biết một cách đầy đủ và chưa thực sự được quan tâm.
Phân loại HCNTKN
Thông thường hội chứng ngừng thở khi ngủ (HCNTKN) gồm 3 loại:
- Ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn: biểu hiện sự ngừng luồng khí thở do tắc nghẽn đường hô hấp trên nhưng các cử động lồng ngực - bụng vẫn được duy trì.
- Ngừng thở trung tâm: ít gặp, biểu hiện sự ngừng hoạt động điều khiển của trung tâm hô hấp, luồng khí qua miệng mũi ngừng lại và không có cử động lồng ngực và bụng. Hội chứng này gặp ở một số bệnh nhân có cấu trúc bất thường của hệ thần kinh trung ương.
- Ngừng thở hỗn hợp: kết hợp cả hai loại trên.
Trong ba thể bệnh kể trên thì loại ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn được nhiều người biết đến và cũng có tỉ lệ mắc cao nhất, chiếm 84% trên tổng số người mắc HCNTKN. Loại ngừng thở trung tâm chiếm khoảng 0,4%, loại hỗn hợp chiếm 15%. Trong khuôn khổ bài báo này chúng tôi sẽ tập trung trình bày HCNTKN tắc nghẽn bởi đây là thể bệnh gặp nhiều nhất.
Nguyên nhân HCNTKN tắc nghẽn
Ở vùng hầu họng, có các tổ chức phần mềm xung quanh đường thở gồm: lưỡi, amidan, vòm miệng mềm, lưỡi gà. Các phần mềm này được các cơ vận động vùng hầu họng nâng đỡ. Khi ngủ say, các cơ này giãn ra làm hẹp đường thở gây ra tiếng ngáy, cũng có khi làm tắc đường thở gây ngừng thở. Nếu bệnh nhân ngừng thở, nồng độ ôxy trong máu giảm xuống, nồng độ khí cacbonic tăng lên kích thích não gây phản xạ thở trở lại. Khi đó bệnh nhân sẽ tỉnh ngủ chốc lát, các cơ ở họng được kích thích co cơ làm đường thở nới rộng ra và đường thở lại được lưu thông. Sau một khoảng thời gian, giấc ngủ sâu hơn, các cơ lại giãn và lại gây hẹp đường thở, xuất hiện tiếng ngáy rồi lại bị ngưng thở. Cứ thế quy trình lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt thời gian ngủ. Phần lớn những người ngủ ngáy không tự biết dù có thể suốt đêm bị lặp đi lặp lại, mỗi giờ 10 lần hoặc nhiều hơn. Thường chỉ có người thân nói cho họ biết là khi ngủ họ đã ngáy to và thỉnh thoảng lại ngừng thở rồi lại thấy thở lại.
HCNTKN có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhất ở lứa tuổi trung niên, tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi, nam gặp nhiều hơn nữ. Những người có nguy cơ cao bị mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn là:
- Béo phì: có nguy cơ gấp 3 lần người bình thường.
- Đối tượng có bất thường về đường hô hấp trên như: Amidan quá phát, khẩu cái mềm và lưỡi gà quá lớn, lưỡi lớn và dày, hàm nhỏ, hàm ra sau, xương móng thấp hơn bình thường...
- Tiền sử nghiện rượu, dùng thuốc an thần, thuốc gây nghiện, trong gia đình có người mắc hội chứng ngừng thở khi ngủ…
- Đối tượng mắc bệnh đái tháo đường, suy giáp…
Tác hại của HCNTKN tắc nghẽn
HCNTKN được coi là một bệnh lý nguy hiểm, vì nó làm giảm đột ngột lượng ô xy trong máu. Khi ô xy trong máu giảm đột ngột gây tăng huyết áp và tạo ra gánh nặng cho hệ tim mạch. Khoảng một nửa số người bị HCNTKN tắc nghẽn sẽ mắc bệnh cao huyết áp, và có nguy cơ xuất hiện biến chứng đột quỵ (tai biến mạch máu não) và suy tim.
HCNTKN làm cho bệnh nhân không thể ngủ ngon bình thường, vì não bộ bị đánh thức lặp đi lặp lại nhiều lần trong đêm (chính người bệnh cũng không cảm nhận được). Do vậy ban ngày sẽ buồn ngủ, mệt mỏi và dễ bị kích thích. Bệnh nhân tỉnh dậy với cảm giác đau đầu, khó tập trung tư tưởng, giảm ham muốn tình dục. Nhiều khi người bệnh tự thấy mình ngủ thiếp đi trong lúc đang xem truyền hình, hoặc thậm chí khi đang lái xe. Người bị chứng ngừng thở khi ngủ bị tai nạn giao thông nhiều hơn người bình thường gấp 3-5 lần.
Chẩn đoán
Với những đối tượng nghi ngờ có hội chứng ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn cần phải hỏi bệnh sử và thăm khám lâm sàng cẩn thận. Chẩn đoán hội chứng ngừng thở khi ngủ tắc nghẽn không khó vì các triệu chứng điển hình và các yếu tố nguy cơ thường rõ rệt. Một trong những dấu hiệu thường gặp nhất là bệnh nhân có tiền sử ngủ ngáy nhiều năm, ngáy to, có cơn ngừng thở ban đêm, thở phì phò, thở hổn hển vào cuối thời kỳ ngừng thở, tiếng ngáy thường giảm khi bệnh nhân nằm nghiêng. Người bệnh thường không biết mình có vấn đề khi ngủ và tình trạng nặng của nó, người ngủ chung và người trong gia đình thường là người phát hiện được các triệu chứng này của bệnh nhân.
Các đối tượng được nghi ngờ mắc HCNTKN trên lâm sàng sẽ được đo đa ký giấc ngủ hay đo đa ký hô hấp. Nếu số lần ngừng thở trên 30 lần/đêm thì chẩn đoán bị HCNTKN và cũng dựa vào kết quả xét nghiệm này đánh giá mức độ nặng của bệnh và có kế hoạch điều trị cụ thể.
Điều trị hội chứng ngừng thở khi ngủ bằng máy thở áp lực dương. |
Điều trị
Có nhiều phương pháp điều trị HCNTKN, việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào mức độ nặng của bệnh, các bất thường của đường hô hấp và các bệnh lý phối hợp.
- Giảm cân và duy trì cân nặng lý tưởng, tránh béo phì.
- Bệnh nhân nên tập thói quen ngủ đủ thời gian và đúng giờ (thường 07 giờ/ngày).
- Không uống rượu, uống thuốc an thần vì gây ức chế hô hấp, làm giảm phản xạ cơ vòm họng, hậu quả làm cho bệnh trầm trọng hơn.
- Nằm nghiêng khi ngủ: hầu hết các bệnh nhân bị ngừng thở khi ngủ trong tư thế nằm ngửa. Có người đính một quả bóng tennis vào chính giữa lưng áo pijama mặc khi ngủ để lúc ngủ say cũng không nằm ngửa được do vướng.
- Dùng thuốc nhỏ mũi để làm giảm bớt chứng nghẹt mũi. Mũi được khơi thông cũng làm giảm hiện tượng tắc nghẽn khi ngủ.
- Sử dụng thiết bị trong miệng (giúp đưa hàm ra trước và là hệ thống trụ nâng khẩu cái; dụng cụ giữ lưỡi) là biện pháp điều trị hiệu quả ở các trường hợp bệnh nhân có bất thường giải phẫu vùng hàm như hàm nhỏ, hàm đưa ra sau và lưỡi dày, tụt ra sau.
- Điều trị bằng phương pháp phẫu thuật: với mục đích làm đường thở mở rộng hạn chế tình trạng tắc nghẽn trong khi ngủ như cắt bỏ một phần khẩu cái mềm, lưỡi gà và cắt Amidan… Tuy nhiên các phương pháp phẫu thuật có tỷ lệ thành công khác nhau.
- Phương pháp chính điều trị HCNTKN là dùng máy thở áp lực dương liên tục (CPAP). Hàng đêm, khi ngủ bệnh nhân sẽ mang một mặt nạ nối với máy thở CPAP, máy này có luồng khí áp lực dương giúp đẩy không khí vào mũi làm cho đường thở mở rộng trong khi ngủ, nhịp thở trở nên đều đặn, ngừng hiện tượng ngáy. Phương pháp thở máy CPAP có hiệu quả cao, cải thiện được 95 - 98% trường hợp, tuy nhiên khi áp dụng điều trị bằng phương pháp này bác sĩ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tư vấn và thuyết phục bệnh nhân sử dụng vì sự bất tiện và khó chịu của việc đeo mặt nạ khi ngủ.
PGS.TS. Ngô Quý Châu - Ths.BS. Phan Thu Phương