“Hội chứng chuyển hóa” (HCCH) là thuật ngữ dùng để chỉ người có nguy cơ cao mắc bệnh tim mạch và đái tháo đường. Theo trực giác của bản thân, tất cả chúng ta gần như đều biết rằng tình trạng béo phì, tăng huyết áp, cholesterol máu cao là không tốt. Chúng ta cũng biết rằng, đề kháng insulin thường có trước đái tháo đường typ 2 và bản thân nó đã là một tình trạng bệnh lý quan trọng cần thiết phải được điều trị.
Người bệnh cần hiểu rằng, việc điều trị các yếu tố nguy cơ là rất quan trọng, trước khi chúng gây tác hại cho sức khỏe. Việc tư vấn của người thầy thuốc diễn ra trong khoảnh khắc tại cơ sở y tế trong khi việc thực hiện theo tư vấn cần phải được bệnh nhân áp dụng trong đời thường, gần như suốt cuộc đời của họ. Cần phải bắt đầu bằng lựa chọn thực phẩm và tăng cường vận động.
Hội chứng chuyển hóa là gì?; Có thường gặp không?
HCCH bao gồm 1 nhóm các yếu tố nguy cơ tập hợp lại trên một người bệnh: Tình trạng béo bụng; Rối loạn lipid máu (là tình trạng rối loạn các chất béo trong máu như triglycerid máu cao, HDL-C máu thấp, LDL-C cao, tạo nên mảng xơ vữa ở thành động mạch); Tăng huyết áp; Tình trạng kháng insulin hoặc không dung nạp đường (là tình trạng cơ thể không thể sử dụng insulin và đường một cách hiệu quả); Tình trạng tiền đông máu (tăng fibrinogen và chất ức chế plasminogen hoạt hóa PAI-1 cao trong máu); Tình trạng tiền viêm (CRP tăng cao trong máu).
Khoảng 20-30% dân số của các nước phát triển mắc hội chứng này. Năm 2010, số người mắc căn bệnh này tại Mỹ được ước tính là vào khoảng 50-70 triệu người.
Làm thế nào để chẩn đoán hội chứng chuyển hóa?
Theo Tổ chức Y tế Thế giới áp dụng chẩn đoán khi người bệnh có từ 3 yếu tố trở lên trong các yếu tố sau:
Nam có vòng bụng ≥ 90cm, nữ có vòng bụng ≥ 80cm.
Triglycerid máu ≥ 150mg/dl.
HDL-C < 40mg/dl (nam) và <50mg/dl (nữ)
Huyết áp ≥ 130/85mmHg.
Tăng glucose máu khi đói ≥ 100mg/dl.
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây bệnh.
Nguyên nhân
HCCH có liên quan tới tình trạng đề kháng insulin. Insulin là một hormon do tụy sản xuất ra có tác dụng kiểm soát lượng đường trong máu.
Bình thường thức ăn được tiêu hóa thành đường (glucosse). Glucose này được máu mang tới các tổ chức của cơ thể, ở đó các tế bào sử dụng glucose làm nguồn năng lượng. Glucose này vào được trong tế bào là nhờ insulin. Ở người có đề kháng insulin, glucose không thể vào tế bào một cách dễ dàng. Cơ thể phản ứng bằng cách sản suất nhiều hơn các insulin (thường là loại kém phẩm chất) để giúp glucose vào tế bào. Kết quả là nồng độ insulin tăng cao trong máu. Tình trạng này đôi khi dẫn đến đái tháo đường khi tuyến tụy không có khả năng tiết đủ insulin để điều chỉnh đường huyết về mức bình thường.
Ngay cả khi mức glucose trong máu chưa đủ cao tới mức được coi là đái tháo đường thì nồng độ glucose máu tăng lên vẫn có thể có hại. Trong thực tế, các bác sĩ gọi đây là tình trạng “tiền đái tháo đường”. Nồng độ insulin máu tăng lên sẽ làm tăng triglycerrid máu và các chất béo khác. Tất cả các yếu tố đó ảnh hưởng tới thận và làm huyết áp cao hơn lên. Tất cả các tác hại do hiện tượng kháng insulin gây ra trên đây gây nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đột quỵ, đái tháo đường và các bệnh khác.
Dự án Quốc gia phòng chống bệnh tăng huyết áp - Viện Tim mạch Việt Nam