
Tổng Bí thư Tô Lâm với các đại biểu tri thức, nhà khoa học, sáng 30/12/2024. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
Theo các chuyên gia giáo dục, bài viết không chỉ có vai trò định hướng, còn là lời kêu gọi đối với toàn xã hội trong việc thúc đẩy học tập suốt đời. Để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên số, học tập suốt đời cần trở thành văn hóa, là nhu cầu tự thân của mỗi người chứ không chỉ là một khẩu hiệu mang tính phong trào.
Học để không bị đào thải
Chuyên gia giáo dục Tống Liên Anh, thành viên Mạng lưới chuyên gia, nhà hoạt động xã hội, học giả về giáo dục người lớn và học tập suốt đời quốc tế (PIMA) chia sẻ: Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ, trí tuệ nhân tạo (AI), tự động hóa đang tái định hình cấu trúc việc làm và cách xã hội vận hành, học tập suốt đời không còn là một lựa chọn mà đã trở thành điều kiện tiên quyết để mỗi cá nhân, cộng đồng và quốc gia thích ứng và phát triển.
Theo bà Tống Liên Anh, ngày nay, việc học một lần để làm việc cả đời đã trở nên lỗi thời. Công nghệ thay đổi từng ngày đòi hỏi con người không ngừng cập nhật kiến thức và rèn luyện kỹ năng. Ở nhiều lĩnh vực, những vị trí từng ổn định nay bị thay thế bởi công nghệ. Trong các nhà máy, robot sản xuất đã thay thế hàng loạt công nhân, giúp doanh nghiệp giảm chi phí nhân công và tăng năng suất. Ngành tài chính chứng kiến sự lên ngôi của các hệ thống AI có khả năng phân tích dữ liệu nhanh chóng, dần đảm nhiệm công việc của những chuyên viên phân tích cấp thấp.
Trong lĩnh vực chăm sóc khách hàng, hàng nghìn nhân viên tổng đài mất việc khi chatbot và trợ lý ảo trở nên phổ biến. Ngành báo chí cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc khi AI có thể viết tin tức, báo cáo tài chính trong thời gian ngắn, khiến nhu cầu tuyển dụng phóng viên giảm mạnh.
Thực tế khắc nghiệt này đặt ra một vấn đề: Nếu không liên tục học hỏi và phát triển kỹ năng mới, người lao động rất dễ bị đào thải. Tuy nhiên, thách thức ấy cũng mở ra cơ hội. Khi công nghệ phát triển, nó không chỉ lấy đi công việc, còn tạo ra nhiều ngành nghề mới đòi hỏi những kỹ năng hiện đại hơn. Người lao động cần học tập không ngừng để chuẩn bị cho những công việc, ngành nghề thậm chí còn chưa xuất hiện trên thị trường lao động.
Học tập suốt đời không chỉ giúp cá nhân thích ứng với sự thay đổi mà còn là động lực để xã hội phát triển. Một quốc gia có lực lượng lao động giỏi về tri thức, thành thạo về kỹ năng và sẵn sàng đổi mới sẽ có vị thế vững chắc trong nền kinh tế toàn cầu. Cuộc cách mạng công nghệ sẽ không dừng lại, nhưng chúng ta có thể chọn cách bước tiếp cùng nó, cách duy nhất để không bị bỏ lại phía sau chính là không ngừng học hỏi, không ngừng tiến bộ.
Chuyên gia giáo dục Tống Liên Anh cho rằng: Nhiều người vẫn chưa thực sự coi đó là một nhu cầu tự thân, mà chỉ xem như một phong trào hoặc hoạt động hưởng ứng chính sách. Để khắc phục tình trạng này, cần có những giải pháp đồng bộ từ chính sách, cơ chế hỗ trợ đến việc thay đổi nhận thức của từng cá nhân.
Trước hết, cần tạo ra một môi trường thuận lợi để bất cứ ai cũng có thể tiếp cận cơ hội học tập một cách linh hoạt. Công nghệ đã mở ra nhiều mô hình đào tạo mới, từ các khóa học trực tuyến, tài nguyên giáo dục mở đến các chương trình đào tạo ngắn hạn giúp người học cập nhật kiến thức liên tục. Hệ thống tín chỉ tích lũy cũng giúp người học chủ động xây dựng lộ trình học tập theo nhu cầu và điều kiện cá nhân.
Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước và doanh nghiệp cũng đóng vai trò quan trọng. Nhiều quốc gia đã triển khai mô hình tài khoản học tập cá nhân, cho phép công dân nhận hỗ trợ tài chính để nâng cao trình độ. Không ít doanh nghiệp chủ động tổ chức đào tạo lại cho nhân viên, giúp họ trang bị kỹ năng mới thay vì đối mặt với nguy cơ mất việc khi công nghệ thay đổi.
Ở Việt Nam, việc xây dựng các chính sách tương tự không chỉ thúc đẩy tinh thần học tập suốt đời mà còn tạo động lực để người lao động chủ động học hỏi, nâng cao năng lực bản thân.
Cùng với cơ chế hỗ trợ, cách tiếp cận giáo dục cũng cần thay đổi. Học tập không chỉ giới hạn trong trường lớp mà có thể diễn ra ở bất cứ đâu: tại nơi làm việc, trong cộng đồng, thông qua các thiết chế như thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa hay qua những trải nghiệm thực tiễn. Khi người học nhận ra giá trị thực tế của việc học: một khóa học trực tuyến giúp họ tìm được việc tốt hơn hay một kỹ năng mới giúp họ tăng thu nhập…, họ sẽ chủ động học hỏi thay vì coi đó là nhiệm vụ ép buộc.
Truyền thông cũng cần đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và lan tỏa tinh thần học tập suốt đời. Chỉ khi mỗi cá nhân hiểu được rằng học tập suốt đời vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của chính bản thân mình, thì học tập suốt đời mới đi vào thực chất và thực sự ăn sâu bám rễ vào đời sống.
Xây dựng hệ sinh thái học tập suốt đời
Bà Nguyễn Thị Mai Hoa, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhận định: Bài viết “Học tập suốt đời”của Tổng Bí thư Tô Lâm đã tạo hiệu ứng mạnh mẽ trong xã hội về việc thúc đẩy học tập suốt đời. Đúng như lời Tổng Bí thư nhấn mạnh, đây không phải vấn đề mới vì đã được khẳng định nhiều lần trong các văn kiện của Đảng và cũng đã xuất hiện nhiều lần trong những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tinh thần tự học ở mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân; nhưng bài viết đã đánh giá toàn diện, phân tích sâu sắc, định hướng rõ nét về vấn đề này.
Định hướng học tập suốt đời trong bài viết của Tổng Bí thư càng có ý nghĩa đặc biệt khi gắn với bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang diễn ra trên toàn cầu với quy mô, tốc độ chưa từng có; tạo ra những biến đổi nhanh chóng, khó lường. Trong bối cảnh ấy, học tập suốt đời là yêu cầu tự thân của mỗi người, tạo cơ hội cho tất cả mọi người để có thể vượt qua thách thức của thời kỳ mới; do vậy, đây cũng là chìa khóa mở ra cánh cửa bước vào kỷ nguyên mới.
Bà Mai Hoa phân tích: Nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao; đồng thời đặt ra yêu cầu mỗi người phải liên tục cập nhật kiến thức mới, bổ sung kỹ năng mới để có khả năng chủ động thích ứng trong mọi hoàn cảnh. Điều đó cũng có nghĩa là mỗi người phải duy trì trạng thái học tập liên tục, không ngừng nghỉ. Muốn vậy, rất cần xây dựng một hệ sinh thái thúc đẩy học tập suốt đời.
Hệ sinh thái đó chính là xã hội học tập thông qua một hệ thống giáo dục mở, hiện đại, liên thông. Hệ thống giáo dục mở thể hiện ở nhiều phương diện: Mở về đối tượng, mở về tài nguyên giáo dục, mở về phương pháp, mở về thời gian và địa điểm, mở về công nghệ học tập. Với hệ thống giáo dục mở, bất cứ công dân nào có nhu cầu học tập đều tìm thấy cơ hội học tập thuận lợi, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong thời gian và không gian khác nhau.
Theo bà Nguyễn Thị Mai Hoa, để bảo đảm hệ sinh thái thúc đẩy học tập suốt đời phát huy hiệu quả, thực chất, cần xác định giáo dục chính quy trong nhà trường là một mắt xích quan trọng. Giáo dục trong nhà trường là giáo dục ban đầu, thời gian học tập là hữu hạn, nhưng có vai trò quan trọng là chuẩn bị năng lực tự học, tự nghiên cứu để người học có đủ điều kiện, khả năng học tập suốt đời.
Vì vậy, các nhà trường rất cần được trang bị cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện đại; xây dựng năng lực tự học trong kỷ nguyên số; xây dựng đội ngũ thầy cô giáo giỏi, giàu nhiệt huyết, trách nhiệm, là tấm gương sáng trong tự học, tự bồi dưỡng để truyền cảm hứng và ý thức học tập suốt đời cho người học;
Cùng với đó, cần quan tâm xây dựng hệ sinh thái học tập suốt đời thông qua giáo dục thường xuyên, phát huy vai trò của hệ thống trung tâm học tập cộng đồng; thúc đẩy giáo dục tiếp tục cho người lớn với các mô hình “công dân học tập”, “gia đình học tập”, “dòng họ học tập”, “cộng đồng học tập”, “đơn vị học tập”.
Đặc biệt, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội nhấn mạnh điều kiện tiên quyết để học tập suốt đời thực sự trở thành một phần trong đời sống xã hội, chính là thái độ của chủ thể. Mỗi người phải tự nhận thức được vấn đề, từ tầm quan trọng, sự cần thiết, quyền lợi và nghĩa vụ đối với sự học của chính mình. Từ đó, có động cơ đúng đắn đối với việc tự học tập, tự bồi dưỡng, bổ sung kiến thức và nâng cao trình độ cho bản thân.
“Việc học vốn đã khó, hình thành ý thức tự học và học tập suốt đời cho mỗi người lại càng khó hơn, đòi hỏi sự quyết tâm về ý chí, sự kiên trì trong quá trình rèn luyện, sự linh hoạt về phương pháp mới có thể thích ứng với mọi hoàn cảnh. Do vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh truyền thông, giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên và người dân hiểu rằng kiến thức có được từ việc học trong nhà trường là hữu hạn, dễ bị lạc hậu; kiến thức hình thành trong quá trình tự nghiên cứu, học trong sách vở, học qua thực tiễn, học ở nhân dân mới là vô hạn, không sợ lạc hậu”, bà Nguyễn Thị Mai Hoa chia sẻ.
Mặt khác, cần hoàn thiện hành lang pháp lý và hệ thống cơ chế chính sách. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng Luật Học tập suốt đời. Đây sẽ là văn bản pháp lý quan trọng cụ thể hóa các quan điểm chỉ đạo, đường lối của Đảng về học tập suốt đời và xã hội học tập; xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi công dân đối với học tập suốt đời.
Một vấn đề quan trọng được bà Mai Hoa đề cập, đó là mỗi cơ quan, tổ chức, cộng đồng cần xây dựng được cơ chế khuyến khích việc học cho cán bộ, nhân viên, để mỗi người đều xác định tinh thần muốn học, cần phải học, không thể không học. Việc đánh giá kết quả học tập, hiệu quả công việc không chỉ qua bằng cấp mà quan trọng là nhìn nhận cả quá trình tích lũy và đổi mới tri thức liên tục để thích ứng với cuộc sống và công việc.
Tinh thần tự học, tự nghiên cứu, bồi dưỡng cần được khuyến khích, động viên, đưa thành tiêu chí thi đua, khen thưởng. Môi trường làm việc tích cực cộng với cơ chế đánh giá hiệu quả công việc một cách minh bạch sẽ tạo động lực để nuôi dưỡng tinh thần, hình thành ý thức và rèn luyện kỹ năng học tập suốt đời, qua đó góp phần phá vỡ “sức ỳ” và tâm lý ngại học của mỗi người.