Ở góc độ hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, chia sẻ với PV Báo Sức khoẻ và Đời sống, ThS. Hoàng Thị Ngân Tâm - cán bộ hướng nghiệp Trường THCS-THPT Ban Mai cho rằng, việc lựa chọn ngành học "khó lỗi thời" là cần thiết, nhưng không nên hiểu theo hướng chạy theo trào lưu.
Theo bà Tâm, nhiều học sinh có xu hướng chọn các ngành được cho là đang "hot" như công nghệ, trí tuệ nhân tạo, trong khi chưa đánh giá đúng năng lực và mức độ phù hợp của bản thân. "Một ngành học chỉ thực sự bền vững khi người học có hứng thú, năng lực phù hợp và sẵn sàng học tập, thích ứng lâu dài. Nếu chỉ chọn ngành vì ít lo thất nghiệp, nguy cơ bỏ dở hoặc chuyển hướng sau vài năm là rất lớn".

Một số lĩnh vực nghề nghiệp được dự báo có nhu cầu nhân lực ổn định trong bối cảnh chuyển đổi công nghệ. Ảnh minh hoạ
Những nhóm ngành được dự báo ít chịu tác động của tự động hóa
Phân tích xu hướng nghề nghiệp trong bối cảnh mới, PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, dù không có ngành nghề nào "an toàn tuyệt đối", vẫn có một số nhóm ngành được dự báo ít chịu tác động của sự thay thế công nghệ trong tương lai gần.
Theo ông Nam, nhóm thứ nhất là các ngành gắn với làn sóng đổi mới sáng tạo lần thứ sáu, gồm chuyển đổi xanh, tiết kiệm năng lượng, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững – những lĩnh vực đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ và được đào tạo bài bản.
Nhóm thứ hai là các ngành thuộc lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và chuyển đổi số, như khoa học máy tính, khoa học dữ liệu, an toàn thông tin. Đây là những lĩnh vực được dự báo tiếp tục duy trì nhu cầu nhân lực lớn trong nhiều năm tới, dù yêu cầu về kỹ năng ngày càng cao.
Nhóm thứ ba là các ngành chăm sóc sức khỏe và chăm sóc sắc đẹp, trong bối cảnh dân số già hóa nhanh và nhu cầu chăm sóc cá nhân hóa gia tăng. Các lĩnh vực như lão khoa, điều dưỡng, chăm sóc sức khỏe cá nhân và dịch vụ thẩm mỹ được đánh giá có tiềm năng phát triển dài hạn.
Nhóm thứ tư là các ngành liên quan đến tâm lý, vốn khó bị thay thế bởi công nghệ do đòi hỏi sự thấu hiểu, đồng cảm và khả năng xử lý cảm xúc của con người.
Nhóm thứ năm là các ngành thuộc lĩnh vực giáo dục. Theo PGS.TS Trần Thành Nam, dù mô hình và triết lý giáo dục có thể thay đổi, vai trò của người thầy vẫn khó có thể mất đi. "Giáo viên trong tương lai không chỉ là người truyền đạt kiến thức mà còn là người thiết kế, kiến tạo môi trường và trải nghiệm học tập cho người học", ông Nam nhấn mạnh.
Ngành "bền vững" không đồng nghĩa với việc làm trọn đời
PGS.TS Trần Thành Nam cũng lưu ý rằng, ngay cả các nhóm ngành được xem là bền vững vẫn chịu sự sàng lọc của thị trường lao động. Những ngành nghề gắn với kỹ năng và nhận thức bậc cao có khả năng chống chịu tốt hơn, song người học cần liên tục nâng cao năng lực để không bị máy móc và công nghệ thay thế.
Dẫn dự báo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, ông Nam cho biết đến năm 2030, trong 100 người tham gia thị trường lao động sẽ có 59 người cần đào tạo lại; trong đó, 29 người chỉ cần nâng cao kỹ năng để tiếp tục công việc hiện tại, 19 người buộc phải chuyển sang công việc mới với thu nhập thấp hơn và 11 người có nguy cơ bị "bỏ lại phía sau" do không thể học kỹ năng mới. Trên phạm vi toàn cầu, ước tính có khoảng 120 triệu người rơi vào nhóm này.
Bổ sung góc nhìn quốc tế, bà Trần Trang Nhung - chuyên gia tư vấn Công ty Du học LEO cho rằng, xu hướng lựa chọn ngành học bền vững không chỉ diễn ra tại Việt Nam mà là mối quan tâm chung của nhiều quốc gia.
Theo bà Nhung, các hệ thống giáo dục hiện nay ngày càng chú trọng trang bị cho người học năng lực thích ứng, tư duy phản biện và khả năng học tập suốt đời, thay vì đào tạo cho một vị trí công việc cố định. "Ngay cả với những ngành được xem là ổn định, nếu người học không liên tục cập nhật kỹ năng và sẵn sàng thay đổi, nguy cơ tụt lại phía sau vẫn hiện hữu".
Các chuyên gia đều chung nhận định rằng, trong bối cảnh thị trường lao động biến động nhanh, việc chọn ngành học chỉ là bước khởi đầu. Quan trọng hơn, người học cần xây dựng tư duy học tập suốt đời, chủ động bồi đắp năng lực và sẵn sàng thích ứng để không bị đào thải trong tương lai.
