Tháng 8 vừa qua, huyện Tiên Yên, Quảng Ninh đã có cuộc hội thảo về ông. Có một vấn đề được bàn thảo: ông là nhân vật lịch sử hay nhân vật truyền thuyết? Và công đức của ông là như thế nào?
Tư liệu về Hoàng Cần mà chúng ta có, rất mỏng, chỉ vẻn vẹn có một số dòng từ 2 tập sách là Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) 1883, Đồng Khánh dư địa chí (ĐKDĐC) 1897 và bia đá Miếu Cửa Suốt, 1853.
Điều đáng chú ý là, cả 3 tư liệu này, đều ghi “Tương truyền thời Trần...”... Nghĩa là theo truyền thuyết còn lưu lại. Ngoài 3 văn bản được coi là văn bản gốc này, hiện chưa tìm thấy bất cứ một tư liệu nào khác. Nếu chỉ căn cứ vào đó, mà khẳng định Hoàng Cần là một nhân vật lịch sử, nghĩa là người có thật, liệu đã có đủ căn cứ khoa học chưa?
Đền thờ Hoàng Cần tại xã Hải Lãng, Tiên Yên. Ảnh: TL
Các tài liệu khoa học lịch sử, tin cậy nhất như bộ Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT) của thời Lê, bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM) của thời Nguyễn, ghi tất cả các sự kiện diễn ra trong xã hội, các nhân vật, các sự kiện từ kinh thành Thăng Long tới các địa phương, các trận đánh (kể cả đánh giặc trong và giặc ngoài), rồi mưa đá, lụt lội, đói kém, trộm cắp..., từ thượng cổ đến thời Lê đều không có bất cứ một chữ nào về Hoàng Cần và những gì liên quan đến ông ở lộ An Bang hay ở bất cứ đâu. Vì thế, tôi có cơ sở để nghĩ: Hoàng Cần là một nhân vật truyền thuyết, thì đúng hơn. PGS.TS. Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam, trong thư gửi cho tôi, ông có một câu rất tâm huyết mà tôi rất trân trọng: “Tôi cũng không có đủ tư liệu để xác quyết việc này (việc Hoàng Cần là một nhân vật lịch sử). Đến đây, lại phải khẳng định, kẻo dễ bị hiểu lầm: Việc xác nhận chủ thần là nhân vật truyền thuyết hay nhân vật lịch sử, giá trị của di tích và vị trí của chủ thần trong tâm thức của người chiêm bái là như nhau. Nước ta từng có một số nhân vật truyền thuyết đã được nhân dân phong THÁNH, hơn cả nhân vật lịch sử như Thánh Gióng, ở làng Phù Đổng trấn Kinh Bắc, như Thánh Tản Viên ở Ba Vì, nay thuộc Hà Nội,...
Hoàng Cần đánh bọn cướp biển ở trong nước hay đánh giặc Trung Quốc xâm lược, hay lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại chế độ cai trị tàn bạo của phong kiến Trung Quốc? Đã có vài tham luận đặt ra vấn đề này (?). Theo tư liệu hiện có từ 3 bản gốc nói trên, không có tư liệu nào nói Hoàng Cần đánh quân xâm lược phương Bắc ở thời Trần, cũng không có tư liệu nào ghi, ông tổ chức khởi nghĩa của nhân dân các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc, chống lại “ách thống trị tàn bạo của bọn phong kiến xâm lược phương Bắc”, vì bọn chúng đều thua trận, phải rút ngay về nước, thì làm sao mà lập được “ách thống trị” để mà “khởi nghĩa chống lại”? Vì điều đó chưa từng có, nên tôi đề nghị các nhà khoa học xem lại, còn tôi thì không bàn thêm.
Vậy Hoàng Cần đánh ai? Cả 3 tư liệu đã nêu trên đều ghi rõ là đánh bọn “răng trắng môi vàng”, “quấy nhiễu cướp bóc dân châu”. Thế thôi. Vậy thì rõ là ông đánh giặc cướp ở địa phương để bảo vệ dân chúng.
Trong hội thảo, có một GS.TS nêu ra ý kiến rằng, vua Trần Nhân Tông đã đến sông Tam Trĩ ở Ba Chẽ, chính là để gặp Hoàng Cần, chỉ đạo ông đánh giặc Nguyên. Tôi xin thưa với GS.TS rằng, ông đã đọc Đại Việt sử kí toàn thư chưa kỹ. Tại trang 58-59, tập II (sách trên) NXB Khoa học xã hội in năm 1971, về việc mà GS đã nêu trên, Đại Việt sử kí toàn thư ghi nguyên văn rõ ràng như sau (bản dịch): “Thế quân giặc bức bách, 2 vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ, đến nguồn Tam Trĩ, sai người chở thuyền ngự ra Ngọc Sơn ( tức là Móng Cái - TNM chua thêm) để đánh lừa quân giặc. Lúc ấy xa giá nhà vua xiêu giạt, mà Quốc Tuấn vốn tự phụ kì tài, lại có mối hiềm cũ của An Sinh vương, mọi người có ý ngờ vực...”. Việc ghi vào quốc sử ấy, xảy ra vào tháng 2 năm Ất Dậu, 1285, tình hình rất ngặt nghèo trong cuộc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ 2. Như vậy chuyến đi ra Tam Trĩ này, “nhà vua xiêu dạt”, không có Trần Quốc Tuấn tháp tùng, 2 vua tránh giặc truy đuổi rất “bức bách” nên cho thuyền ra Tam Trĩ (Ba Chẽ), rồi đưa thuyền ngự của nhà vua ra mãi Móng Cái để “đánh lừa quân giặc”, để giặc tưởng là vua đã ra Móng Cái. Đây là việc đại sự quốc gia, “ngầm đi chiếc thuyền nhỏ”, tuyệt đối bí mật. Làm sao lại có chuyện vua đi tìm gặp Hoàng Cần mà chỉ đạo Hoàng Cần đánh giặc trong tình huống ấy được(?!). Sau đó 2 vua đi bộ (ngựa) về vùng Kiến An - Thái Bình... Tất cả chỉ có như vậy thôi, thưa GS. Việc vua Trần ra Ba Chẽ để chỉ đạo Hoàng Cần đánh quân Nguyên, chỉ là do GS tưởng tượng ra mà thôi.
Vậy Hoàng Cần được phong Khâm sai Đông đạo tiết chế ở thời nào? Ông có chỉ huy quân đội của cả vùng Đông Bắc của nước ta không? Lại có vài tham luận và phát biểu đưa ra. Từ trước đến nay, nhiều người đều nói và viết Hoàng Cần được phong chức đó từ thời Trần, do vua Trần phong. Đó là sai. Ở thời Trần, đơn vị hành chính cấp tỉnh gọi là “lộ”, chữ “tỉnh” ta dùng hiện nay, bắt đầu có ở thời Nguyễn. Chỉ có thời Lê mới gọi tỉnh là “đạo”. Đông đạo là tỉnh Đông ở thời Lê, bao gồm vùng đất từ Hải Dương đến Hải Phòng, Quảng Ninh hiện nay. Vậy chức đó, là ở thời Lê, do vua Lê truy phong cho Hoàng Cần, năm nào chưa rõ, nhưng dĩ nhiên là phải trước năm 1789. Tại đền Cửa Ông, hiện còn 5 đạo sắc triều Nguyễn phong cho Hoàng Cần, các năm 1853, 1880, 1887, 1909, 1917 (trong đó 2 đạo sắc năm 1853 và 1909 ghi là chi thần). PGS.TS. Đặng Văn Bài khi tổng kết hội thảo, có nói rằng, nhìn vào màu sắc, nhận ra ngay là sắc giả (phục chế) và trực tiếp hỏi nhà Hán Nôm học Hoàng Giáp, được ông Giáp trả lời ngay, đó là các bản phục chế, vì không có bản gốc (sắc thật). Như vậy, độ tin cậy cũng chỉ có tính mức độ. Với chức đó, có phải Hoàng Cần đã chỉ huy quân đội của cả vùng Đông Bắc như một số ý kiến đã nêu ra trong hội thảo này không? Đây lại là một sai lầm nữa. Vùng Đông Bắc được xác định từ Hà Nội, bao gồm 10 tỉnh là Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang và Quảng Ninh. Quảng Ninh là tỉnh ở cực Đông Bắc của vùng Đông Bắc. Do nhầm lẫn Quảng Ninh là vùng Đông Bắc, nên nhiều việc diễn ra trong lịch sử tại Bắc Giang và Lạng Sơn, như chiến công của Trần Quốc Nghiễn, đuổi quân Nguyên ở thời Trần, được kéo về Quảng Ninh và ghi luôn vào bia đá, là việc đó đã diễn ra ở phường Hồng Gai, TP. Hạ Long bây giờ. Cũng tương tự như thế, trong diễu hành rước Trần Quốc Tảng ở hội đền Cửa Ông, được truyền hình trực tiếp qua sóng Đài THVN và Đài THQN, loa phóng thanh phát ra, ca ngợi chiến công của Trần Quốc Tảng đã đánh chìm đoàn thuyền lương Trương Văn Hổ tại biển Vân Đồn. Ai cũng biết đó là chiến công của Trần Khánh Dư, không liên can gì đến Trần Quốc Tảng. Để chuẩn bị dư luận đưa tượng Trần Quốc Tảng từ dưới thấp lên đồi cao, chỉ tay ra biển Vân Đồn, có cần phải “sáng tạo, đột phá” ra điều đó không, thưa các nhà khoa học và các vị quản lí nhà nước về văn hóa?
Chức Tiết chế trong quân đội thời trước, nay là chức Tư lệnh, chỉ huy trưởng các binh chủng và các địa phương. Hoàng Cần là Tiết chế Đông đạo, chỉ huy trưởng tỉnh Đông, có phải đương thời đã chỉ huy quân sự của cả tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương và Hải Phòng hiện nay không? Xin thưa là không. PGS.TS. Đặng Văn Bài và nhà Hán Nôm học kì cựu Hoàng Giáp, đều ghi rất chính xác, ông là tù trưởng, tức là cấp trưởng về lực lượng võ trang của một địa phương miền núi, ở đây là xã, như ĐNNTC và ĐKDĐC đã ghi, xã Hải Lãng, châu Tiên Yên. Quân lính của ông là ai? là “gia binh” và “hương binh”, nghĩa là lính của nhà mình, của thôn xã mình. Điều đó rất có ý nghĩa, đây là cuộc đánh giặc do ông tổ chức và hoàn toàn tự nguyện, không phải nhận lệnh của cấp trên nào. Đó cũng là đặc trưng ở thời Trần, các vương hầu, các tù trưởng (ở miền núi), đều có quyền có quân đội riêng, có công an riêng. Khi có giặc, lực lượng của giặc, chắc cũng không lớn lắm, ông đã tự mang quân đi đánh dẹp, đã đánh tan giặc, bảo vệ dân. Chính nghĩa cử can trường và tự nguyện vì dân đó, mà ông được nhân dân kính ngưỡng, phụng thờ. PGS.TS. Đặng Văn Bài có ghi 1 câu rất cần được lưu ý: “ĐKDĐC cho biết: Hoàng Cần đã được triều đình nhà Lê cấp sắc ban tặng mỹ tự: Khâm sai Thái Bảo Xuyên Quốc công”. Ban tặng mỹ tự là ban cho tên thụy để thờ cúng, để từ đó mà có các chế tài tiếp theo, như ta nói bây giờ, là đền thờ được phép xây rộng lớn đến mức nào, được cấp bao nhiêu ruộng làm hương hỏa, không phải đóng thuế, lễ hội được tổ chức mấy ngày, Nhà nước chu cấp theo quy định là bao nhiêu tiền, lễ vật cúng giỗ được giết đến gà lợn hay trâu bò... Như vậy, chức đó chỉ để thờ phụng, không phải là chức để cầm quân, nhất là sau khi ông đã mất được khoảng 500 năm.
Điều cuối cùng là vấn đề dân tộc. Ba tư liệu khoa học gốc của thời Nguyễn, đều ghi Hoàng Cần là người xã Hải Lãng, châu (huyện) Tiên Yên. Đã có lần, tôi nói chuyện về Hoàng Cần một buổi sáng với cán bộ và nhân dân Hải Lãng. Người Hải Lãng nói ông là người Sán Dìu, vì từ thời xưa đến năm 1945, đây là xã độc cư của người Sán Dìu. Theo ThS. Trương Quốc Hùng, Ủy ban Dân tộc Chính phủ phát biểu trong hội thảo, thì người Sán Dìu vào Việt Nam mới khoảng 300 năm nay. Thời Trần khoảng 600 - 700 năm trước, Việt Nam không có người Sán Dìu. Người Bình Liêu thờ Hoàng Cần và nhất quyết ông là người Tày, quê ở huyện Bình Liêu. PGS.TS. Đặng Văn Bài kết luận: Ông là người dân tộc thiểu số, còn người Sán Dìu hay người Tày không quan trọng. Tôi cho rằng điều ấy rất quan trọng để xác quyết một nhân vật lịch sử, nhưng quả thực là nó không quan trọng, vì Hoàng Cần là một nhân vật truyền thuyết.