Ho ra máu do nhiễm nấm phổi
Một nam bệnh nhân 70 tuổi, ho ra máu tái phát nhiều lần, được đưa vào Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội. Các bác sĩ phát hiện viêm thùy trên phổi trái, chảy máu vào phế nang, giãn phế quản, giãn phế nang và có nhiều dải nấm sợi trong dịch phế quản. Kết quả chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm xác định bệnh nhân bị nấm phổi.
Bệnh nhân được ưu tiên điều trị bằng thuốc kháng nấm, thuốc cầm máu và ngừng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu để kiểm soát ho ra máu. Tuy nhiên, sau vài ngày ổn định, bệnh nhân lại ho ra khoảng 100 ml máu tươi, có nguy cơ ngạt thở, suy hô hấp cấp và tử vong. Người bệnh được hỗ trợ thở oxy, sử dụng morphine để cầm máu cấp cứu.
Các bác sĩ tiến hành hội chẩn đa chuyên khoa lần hai và quyết định thực hiện thủ thuật ít xâm lấn: nút tắc động mạch phế quản nuôi dưỡng vùng tổn thương, dù tiên lượng khá khó khăn. Sau can thiệp thành công, bệnh nhân giảm đau ngực, không còn ho ra máu tái phát và có thể dùng lại thuốc chống ngưng tập tiểu cầu để tránh tái tắc hẹp stent mạch vành. Sau hai tuần theo dõi và điều trị tích cực, bệnh nhân xuất viện, duy trì điều trị bệnh nền. Bác sĩ tư vấn người bệnh bỏ thuốc lá, tiêm phòng vaccine cúm, phế cầu, ho gà để hạn chế nguy cơ viêm đường hô hấp. Hiện sức khỏe bệnh nhân ổn định, tăng cân tốt.

Bệnh nấm phổi tiến triển âm thầm, không có triệu chứng đặc hiệu nên thường được phát hiện muộn.
Bệnh phổi do nấm Aspergillus gây ra ba nhóm bệnh: nấm phổi xâm lấn, nấm phổi mạn tính và dị ứng phế quản – phổi do nấm.
Theo thống kê, tỷ lệ sống sót sau 1 năm, 5 năm và 10 năm của bệnh nhân lần lượt là 86%, 62% và 47%. Tỷ lệ mắc nấm phổi mạn tính ở bệnh nhân lao mới là 14%, còn ở bệnh nhân đã điều trị lao là 56%. Tuy nhiên, tại nhiều quốc gia, việc chẩn đoán và điều trị còn gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực.
Nguyên nhân chính gây nấm phổi là do các loại nấm Candida, Aspergillus, Cryptococcus, trong đó Aspergillus là phổ biến nhất.
Hầu hết bệnh nhân thường đến khám do ho ra máu kéo dài không rõ nguyên nhân, sốt dai dẳng, đau ngực, ho khạc đờm kèm khó thở giống hen hoặc viêm phổi kháng kháng sinh. Bệnh nấm phổi do Aspergillus tiến triển âm thầm, không có triệu chứng đặc hiệu nên thường được phát hiện muộn, đôi khi sau nhiều năm.
Triệu chứng nhận biết
Nấm phổi thường không có triệu chứng đặc trưng, mà giống với lao phổi hoặc viêm phổi. Biểu hiện có thể khác nhau tùy nguyên nhân và tình trạng người bệnh, bao gồm:
Đau tức ngực, ho khan. Sốt kéo dài. Ho ra máu khi nhiễm Aspergillosis. Sụt cân, mệt mỏi thường xuyên. Khó thở, tắc nghẽn đường thở, có thể sưng hạch.
Nếu không điều trị kịp thời, bào tử nấm có thể lây lan sang cơ quan khác, gây biến chứng nghiêm trọng như ho ra máu ồ ạt không kiểm soát, suy kiệt sức khỏe, thậm chí đe dọa tính mạng.
Đối tượng dễ mắc nấm phổi
Nấm phổi thường xuất hiện ở những người có thể trạng yếu, sức đề kháng kém, bao gồm:
Người lớn tuổi, người mắc bệnh mạn tính lâu năm. Bệnh nhân mắc bệnh về máu, rối loạn dinh dưỡng, rối loạn chuyển hóa. Người có hệ miễn dịch suy giảm do dùng thuốc chống đào thải sau ghép tạng hoặc do HIV/AIDS. Người thường xuyên dùng thuốc ức chế miễn dịch, corticoid. Người từng mắc lao phổi.
Phòng ngừa bệnh nấm phổi
Để phòng ngừa, mỗi người cần nâng cao sức đề kháng bằng lối sống khoa học: ăn uống đủ chất, tăng cường rau xanh, trái cây, hạn chế rượu bia, thuốc lá và duy trì vận động thể chất.
Người có nguy cơ cao cần điều trị tốt bệnh lý nền. Khi có dấu hiệu bất thường, phải đi khám sớm để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tránh biến chứng. Nếu phát hiện và điều trị đúng phác đồ, tiên lượng bệnh thường khả quan.
Đối với bệnh nhân đã nhiễm nấm phổi, cần theo dõi và đánh giá định kỳ để phòng tái phát. Đồng thời, nên giữ môi trường sống và làm việc sạch sẽ, thông thoáng, tránh ẩm thấp. Nhà cửa cần được chiếu sáng tự nhiên và vệ sinh thường xuyên để hạn chế sự phát triển của nấm.