Trên thế giới, có nhiều vụ tai biến y khoa đã bị thổi phồng đưa tin sai lệch, gây mất lòng tin đối với người dân, trong đó có an toàn sử dụng thuốc ức chế canxi trong điều trị cao huyết áp cũng như một số biện pháp điều trị các bệnh khác.
Tại buổi họp Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ năm 1995, các nhà nghiên cứu đưa ra một loạt những câu hỏi sơ lược về an toàn trong việc sử dụng thuốc ức chế canxi có tác dụng ngắn để điều trị cao huyết áp. Bản tóm tắt mô tả một nghiên cứu kiểm soát dân số dựa trên phát hiện ra rằng thuốc ức chế canxi có tác dụng tức thời làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân có chứng tăng huyết áp. Nghiên cứu này đã nhanh chóng lan truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thật không may, thông tin lan truyền đã bị phóng đại quá mức với những tít giật gân (ví dụ, “Thuốc huyết áp gây nhồi máu cơ tim; “Các nhà nghiên cứu lo ngại 6 triệu người đang bị đe dọa”), những thông tin bị thổi phồng về mức độ ảnh hưởng của thuốc (ví dụ, họ chỉ tập trung vào nguy cơ gia tăng tương đối khoảng 60% hơn những gì các nhà nghiên cứu cho là “rất nhỏ” trong việc gia tăng tuyệt đối nguy cơ từ 1 trong 1.000 người đến 1.6 trong 1,0002 người) và sự phóng đại (ví dụ, liên lụy tất cả chứ không phải là thuốc ức chế canxi có tác dụng ngắn).
Bàn về vấn đề này trên tạp chí Journal, Burnt và các đồng nghiệp đã đưa ra một số hậu quả nghiêm trọng khi các phương tiện truyền thông phóng đại thông tin khiến dư luận xôn xao, lo lắng và một số bệnh nhân bị cao huyết áp ngưng sử dụng thuốc. Burnt đã tính đến tác dụng phụ khi dùng thuốc, những thay đổi trong tỷ lệ của thuốc ức chế canxi được ghi lại trong cơ sở dữ liệu dược phẩm quốc gia. Trong khi mức độ ảnh hưởng theo báo cáo của Burnt là nhỏ, chỉ giảm khoảng dưới 10% các thuốc ức chế canxi. Những thông tin đưa ra có tác động rất lớn đến thái độ của người tiêu dùng vì họ thường tin nó là đúng.
Cũng bàn luận về vấn đề này, Stamn và cộng sự đã đưa ra lời khuyên làm thế nào để sự tương tác giữa những nghiên cứu và phương tiện truyền thông phối hợp tốt hơn. Những lời khuyên thiết thực trong việc soạn thảo, trình bày thông tin hay các cuộc nói chuyện với các phóng viên. Đặc biệt là sự cần thiết để xác định lợi ích cơ bản khi trình bày sự khác biệt tương đối và cần phải quy định rõ việc nghiên cứu dân số có thể giúp giảm thiểu một số vấn đề Brunt mô tả. Nhưng vấn đề là làm thế nào để các nhà nghiên cứu làm theo lời khuyên này, khó khăn về chất lượng thông tin của phương tiện truyền thông đưa tin về nghiên cứu y học sẽ vẫn tồn tại. Hai vấn đề cơ bản nổi bật: các nghiên cứu được đưa ra quá sớm và sự thổi phồng kết quả nghiên cứu y khoa.
Việc nghiên cứu khoa học được công bố quá sớm trên phương tiện truyền thông mà không được cân nhắc kỹ sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng nghiêm trọng. Những tin tức này được đưa tin thường xuyên và rất phổ biến. Trong 5 cuộc họp khoa học lớn vào năm 1998, có khoảng 30 bài tóm tắt được phương tiện truyền thông đưa tin và 1/4 trong số đó được đưa lên trang nhất báo. Gần đây, chúng tôi cảm thấy rất ngạc nhiên khi thấy công việc của một nhóm nghiên cứu quyết định phân tích những lợi ích của việc phẫu thuật béo phì được đưa ra tại cuộc thảo luận về phẫu thuật và được giới thiệu trong một bài xã luận của tờ Sunday New York Times (mà không đề cập đến bản chất sơ bộ của nó). Vì nghiên cứu được trình bày tại cuộc họp khoa học nên thường bị dở dang, không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều giấy tờ sẽ bị loại bỏ trước đó. Qua các nghiên cứu về hội thảo khoa học, chúng tôi thấy rằng 25% các bài tóm tắt được đưa ra truyền thông mà không được xuất bản hơn 3 năm sau đó. Các bài tóm tắt khác có thể được xuất bản nhưng sẽ có những thay đổi đáng kể theo thời gian trước khi được đăng trên một tạp chí y tế.
Phóng đại về các nghiên cứu y khoa cũng sẽ dẫn đến những tác hại vô cùng nghiêm trọng. Ví dụ như khi đưa tin về lợi ích và tác hại của 3 loại thuốc phổ biến thì tin tức thường không đầy đủ hoặc thiếu căn cứ: ít hơn 2/3 tin về lợi ích của việc chữa trị và chỉ khoảng một nửa đề cập đến những tác hại tiềm năng. Hơn nữa, khi câu chuyện đã làm định lượng lợi ích, họ đã làm như vậy bằng cách báo cáo giảm nguy cơ tương đối mà không cần chú ý tỷ lệ sự kiện cơ bản, một định dạng được biết đến có thể nói hết hiệu lực nhận thức của một can thiệp. Những phát hiện tương tự đã được báo cáo trong một nghiên cứu của các phương tiện truyền thông trong việc chụp tuyến vú, dùng tamoxifen và ung thư vú.
Các nhà nghiên cứu trình bày tại hội nghị khoa học cho rằng chúng ta có thể làm được rất nhiều điều để ngăn chặn sự phóng đại. Họ có thể phải cẩn thận trước những thông tin đưa ra khi những nghiên cứu chỉ nằm trong số những trường hợp có thể xảy ra, sự cần thiết để hiểu kết quả và đặt chúng vào những hoàn cảnh nhất định cũng như việc chờ đợi để kết quả được đánh giá mang tính khoa học. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu cũng nên đặt câu hỏi tại sao các bài thuyết trình tại cuộc họp cần được làm chặt chẽ. Ngoại trừ những trường hợp công chúng cần phải biết kết quả ngay lập tức, các nhà nghiên cứu cũng nên xem xét từ chối trả lời những kết quả sớm với giới truyền thông và cần đợi đến khi có kết quả cuối cùng. Khi những ảnh hưởng từ việc thổi phồng thông tin ngày càng nghiêm trọng thì nó cũng cần được giải quyết ở cấp độ khác. Phương tiện truyền thông có thể bắt đầu bằng cách tăng cường báo cáo các bài tóm tắt về cuộc họp và gặp gỡ các tổ chức để xem xét lại những thông tin quảng cáo của họ.
Nhưng vấn đề ngày càng trở nên nghiêm trọng khi những tin nóng hổi sẽ đem lại nguồn lợi lớn cho các phương tiện truyền thông thì những giải pháp trên dường như sẽ không được quan tâm. Phương tiện truyền thông đang cạnh tranh khốc liệt với nhau trong việc thu hút công chúng; những nhà tổ chức sự kiện cần thu hút các nhà khoa học, các nhà quảng cáo và các nhà tài trợ; các nhà nghiên cứu cần phải đưa ra kết quả để thúc đẩy sự nghiệp của họ; và các trường đại học cần công khai để gây quỹ. Trong mỗi trường hợp, lợi ích của các cá nhân và tổ chức được lấy bằng cách đưa ra tin tức được coi là mới, lớn và quan trọng.
Vì những lý do này nên chúng ta cần tập trung chữa bệnh “thổi phồng”. Chúng tôi tin rằng các bác sĩ sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu tác hại của việc phóng đại bằng cách khuyến khích bệnh nhân nâng cao thái độ hoài nghi với những tin tức về sức khỏe (đặc biệt đối với những nghiên cứu sơ bộ). Mặc dù chúng tôi nhận ra rằng việc thêm vào danh sách ngày càng tăng của trách nhiệm bác sĩ lâm sàng có thể không mong muốn, chúng tôi nghĩ rằng các bác sĩ có thể thay đổi suy nghĩ của bệnh nhân (cũng như sinh viên y khoa và học viên) chống lại cường điệu bằng cách dạy họ, khi có cơ hội phát sinh, yêu cầu đặt câu hỏi sau đây:
Những tin này có đúng với bản thân không? Những tin tức thường chung chung và dẫn đến những suy luận sai lệch thông tin trong việc chữa trị của từng nhóm bệnh nhân.
Những tin tốt hoặc xấu này có chính xác không? Ảnh hưởng lớn tạo ra những tin tức, nhưng tác động lớn có thể không đại diện cho sự thật. Đôi khi bộ phim truyền hình thay vì phản ánh việc sử dụng sai lệch các con số, các nhóm so sánh không hợp lệ hoặc một bước nhảy vọt của đức tin từ kết quả trung gian.
Bài viết, ý kiến đóng góp cho diễn đàn “Tai biến y khoa” xin gửi về banthukysk@gmail.com, bandientuskds@gmail.com. Tòa soạn tôn trọng các quan điểm khác nhau, các ý kiến phản biện của tác giả trên cơ sở khách quan, trung thực và khoa học. Các bài viết đăng trên diễn đàn này thể hiện quan điểm riêng của tác giả.
SK&ÐS
Quản Thắm
(Theo US National Library of Medicine - Thư viện Y học Mỹ)
- Tai biến y khoa qua những câu chuyện ở phòng cấp cứu
- Mời tham gia diễn đàn: Tai biến y khoa
- Bác sĩ treo cổ, tai biến sau sự cố y khoa
- Tai biến trong y khoa là điều khó tránh và không ai mong muốn
- tai biến y khoa
- Tai biến y khoa
- “Đừng vì chặt một cây gỗ mục mà làm héo úa cả khu rừng”
- Sự cố y khoa, cần một cái nhìn chỉn chu của báo chí!
- Ai bảo vệ danh dự cho bác sĩ?
- Bác sỉ sản khoa "bật mí" chuyện mổ lấy thai
- Bác sĩ ngoại khoa, máu lạnh?
- Tôi đã làm "từ mẫu" như thế nào?
- Nghề y không phải là một phương tiện thương mại
- Tử vong sau thủ thuật nội soi dẫn lưu mủ bể thận, vì sao?
- Góc khuất nghề y - Chuyện giờ mới kể
- Lỗ thủng?
- Suýt mất vợ vì..tai biến
- Sai lầm chuyên môn y khoa: Phân xử ra sao?
- Sai sót y khoa - 99% do lỗi hệ thống
- Bất ngờ thoát chết sau hơn 4 tháng thở máy, ngừng tim
- Cấy ghép y khoa thiếu an toàn - Tội của các nhà làm luật EU