Thừa cân - béo phì (TC-BP) là sự tích tụ mỡ bất thường, vượt quá mức cho phép làm ảnh hưởng đến sức khỏe. Hiện nay, TC-BP ở trẻ em đang là vấn đề thách thức sức khỏe cộng đồng trên toàn cầu. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2016, có khoảng 41 triệu trẻ dưới 5 tuổi và 340 triệu trẻ em từ 5-19 tuổi bị TC-BP. Ở Việt Nam, tỷ lệ TC-BP có xu hướng tăng nhanh trong thập kỷ qua, đặt biệt là ở khu vực thành phố. Một nghiên cứu được tiến hành trong 12 tháng (năm 2014 – năm 2015) trên 5.028 học sinh từ 7 – 17 tuổi tại 75 trường học tại Hà Nội, thành phố HCM, Thái Nguyên, Nghệ An và Sóc Trăng cho thấy 41,9% học sinh tiểu học ở thành thị TC-BP, trong khi ở nông thôn, con số này là 17,8%.
Làm thế nào để biết trẻ đã bị thừa cân – béo phì?
Để đánh giá trẻ bị TC-BP ngoài việc quan sát hình thể của trẻ thì số đo cân nặng và chiều cao cho phép ta nhận định một cách khách quan:
Đối với trẻ em từ 0-5 tuổi: Trẻ được coi là thừa cân khi chỉ số cân nặng theo chiều cao dao động từ 2 độ lệch chuẩn (SD) đến < 3SD. Trẻ coi là béo phì khi cân nặng theo chiều cao ≥ 3 SD.
Đối với trẻ em 5-18 tuổi: Trẻ được coi là thừa cân khi chỉ số khối cơ thể theo tuổi (BMI-Zscore) từ 1 SD đến < 2SD. Trẻ được coi là béo phì khi BMI-Zscore ≥ 2SD.
Khi trẻ > 10 tuổi có thể đo % mỡ cơ thể, khi trẻ có % mỡ cơ thể >30% được coi là béo phì.
Trẻ bị thừa cân béo phì dễ mặc cảm tự ti, thậm chí trầm cảm.
Nguyên nhân dẫn đến thừa cân - béo phì ở trẻ
Trẻ bị TC-BP chủ yếu là do dinh dưỡng bất hợp lý, ăn quá thừa năng lượng và ít hoạt động thể lực. Khẩu phần ăn vào vượt quá nhu cầu năng lượng của cơ thể, năng lượng dư thừa sẽ được chuyển thành mỡ tích lũy trong các tổ chức. Những thói quen ăn uống không lành mạnh như: Không ăn rau xanh, thích ăn ngọt, đồ chiên rán, thức ăn nhanh... Ăn nhanh, ăn nhiều vào bữa tối, hay ăn vặt là nguyên nhân dẫn đến TC-BP ở trẻ.
Những trẻ ít hoạt động thể lực như ít vận động, không chơi thể thao, thường xuyên xem tivi, chơi điện tử, bố mẹ đưa đón đến trường, đi xe đạp điện… dẫn đến ít tiêu hao năng lượng cũng dẫn đến TC-BP ở trẻ tuổi học đường.
Trẻ có cân nặng sơ sinh quá cao, suy dinh dưỡng bào thai, sinh non, bị suy dinh dưỡng thấp còi lúc nhỏ dưới 2 tuổi đều có nguy cơ TC.
Trẻ mang một số gen trong các nhóm gen như nhóm gen kích thích sự ngon miệng, nhóm gen liên quan đến tiêu hao năng lượng, nhóm gen điều hòa chuyển hóa, nhóm gen liên quan đến sự biệt hóa và phát triển tế bào mỡ. Những trường hợp này thường gặp ở trẻ có bố mẹ bị thừa cân-béo phì.
Ngủ ít cũng được xem như là một yếu tố nguy cơ cao đối với TC-BP ở trẻ dưới 5 tuổi. Một số tác giả cho rằng hoạt động tiêu mỡ của cơ thể đạt tối đa về đêm và ngủ ít làm giảm tiêu mỡ nói chung.
Tác hại của thừa cân - béo phì
Béo phì là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh tật của nhiều cơ quan, bộ phận trong cơ thể như:
Thoái hóa khớp, cong xương đùi, đau thắt lưng: Khi trọng lượng cơ thể tăng quá mức so với tuổi thì sức nặng đè lên các khớp càng lớn, nhất là vùng lưng, khớp háng, khớp gối, cổ chân làm cho các khớp này sớm bị tổn thương và lão hóa nhanh. Hậu quả là gây đau đớn và khó khăn trong vận động, sinh hoạt hàng ngày của trẻ.
Hệ nội tiết, chuyển hóa: Tình trạng kém dung nạp glucose, kháng insulin, nặng hơn là bệnh đái tháo đường typ 2, rối loạn chuyển hóa mỡ máu, tăng acid uric gây bệnh gút.
Bệnh về cơ quan tiêu hóa: Dễ bị sỏi túi mật, sỏi trong gan, gan nhiễm mỡ sớm do tiêu thụ lượng lớn đường fructose và chất tạo ngọt High fructose corn syrup (HFCS) có trong nước có ga và các loại thực phẩm đóng hộp. Đường fructose và chất tạo ngọt HFCS đến gan sẽ chuyển hóa một phần thành acid béo gây tình trạng gan nhiễm mỡ.
Hệ tim mạch: Tăng huyết áp, xơ vữa mạch máu, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch não, hẹp tắc động mạch chi.
Hệ hô hấp: Giảm thông khí, ngừng thở khi ngủ là một biến chứng rất nguy hiểm.
Mắc bệnh mạn tính khi tuổi trưởng thành: Trẻ TC-BP có thể không có biểu hiện bệnh ở thời điểm hiện tại nhưng khi trưởng thành có nguy cơ mắc các bệnh mạn tính không lây như các bệnh tim mạch, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ, suy giảm sinh dục. Trẻ gái dễ bị buồng trứng đa nang, trẻ trai bị tinh hoàn và dương vật nhỏ, thiểu năng hormon sinh dục ảnh hưởng đến sức khỏe sinh sản sau này.
Ảnh hưởng đến tâm lý của trẻ: Trẻ dễ bị tự ti do bạn bè trêu ghẹo, chế giễu, dẫn đến chán chường, không muốn đi học. Ngại giao tiếp, các em trở nên thụ động, thiếu linh hoạt và cô đơn vì không có bạn. Nếu tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến chứng trầm cảm.
Tập luyện thể thao thường xuyên giúp phòng tránh thừa cân, béo phì ở học sinh.
Phòng ngừa tình trạng thừa cân - béo phì ở tuổi học đường
Dinh dưỡng hợp lý cho người mẹ trong thời gian có thai: Cần phải phòng ngừa rất sớm từ khi trẻ còn nằm trong bụng mẹ. Mức tăng cân hợp lý trong thời gian mang thai của bà mẹ là 10-12 kg. Cân nặng sơ sinh nên tốt nhất từ 2800g – 3000g.
Nuôi con bằng sữa mẹ: Cho trẻ bú sớm (trong vòng giờ đầu), bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục bú kéo dài cho đến khi trẻ được 24 tháng.
Chế độ ăn bổ sung hợp lý: Cho trẻ ăn bổ sung đúng thời điểm (khi trẻ tròn 6 tháng), ăn đủ số bữa theo lứa tuổi, khẩu phần ăn cân đối, phối hợp nhiều nhóm thực phẩm (nhóm lương thực, đậu đỗ, sữa/chế phẩm của sữa, thịt/các các loại, trứng các loại, rau các loại, các loại quả, củ quả có màu vàng/đỏ và nhóm dầu mỡ). Tập cho trẻ ăn rau xanh từ nhỏ, ăn các loại trái cây ít ngọt.
Hạn chế ăn thức ăn nhanh, thức ăn nhiều đường ngọt, chất béo. Nên cho trẻ ăn nhiều vào bữa sáng, ăn vừa phải vào bữa trưa, ăn ít vào bữa tối, không nên ăn quá muộn.
Tập thói quen cho trẻ ngủ sớm, ngủ đủ giấc: Cha mẹ nên tập cho trẻ ngủ trước 21 giờ đối với trẻ dưới 6 tuổi, các lứa tuổi khác ngủ trước 10 giờ. Số giờ ngủ trung bình mỗi ngày tùy từng lứa tuổi: Số giờ ngủ trung bình của trẻ sơ sinh, dưới 1 tuổi và từ 1-2 tuổi tương ứng là 14-17 giờ; 12-15 giờ và 11-14 giờ. Trẻ từ 3-5 tuổi là 10-13 giờ. Trẻ từ 6 tuổi ngủ đủ 8 giờ 1 ngày, nên ngủ nhiều vào ban đêm hạn chế ngủ ngày đối với trẻ lớn.
Tăng cường hoạt động thể lực: Hoạt động thể lực là yếu tố quan trọng giúp trẻ phát triển chiều cao, trẻ phát triển chiều cao tốt ít có nguy cơ bị thừa cân - béo phì.
Thường xuyên theo dõi cân nặng chiều cao cho trẻ: Theo dõi tăng trưởng của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng tại gia đình và trường học để phát hiện sớm TC-BP và xử lý kịp thời.
Cần có sự phối hợp liên ngành: Giải quyết TC-BP là vấn đề của toàn xã hội, trẻ em và thanh thiếu niên chưa nhận thức được nguy cơ và hậu quả của TC-BP. Phòng chống TC-BP cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình (phụ huynh) với nhà trường với toàn thể xã hội bao gồm các ngành nghề: Truyền thông (tăng sự hiểu biết nhận thức về nguy cơ và hậu quả của TC-BP), sản xuất (công bố chất lượng sản phẩm), kinh doanh (căng tin nhà trường hạn chế hoặc không nên bán những thực phẩm có nguy cơ TC-BP). Bộ Giáo dục và Đào tạo cần cải tiến chương trình học: Tăng cường các môn học về thể chất, giảm tải chương trình học ở học sinh tiểu học, hạn chế học thêm… để trẻ có thời gian vận động vui chơi sau các giờ học căng thẳng.