Thời gian làm mọi sự thay đổi khôn lường. Cái nghèo, cái khó bắt người ta quên lãng nhiều chuyện. Thế nhưng, thật mừng vì hát xoan, một di sản văn hóa phi vật thể của vùng đất Tổ Phú Thọ, đến “phút chót” đã không bị “vướng” vào cái quy luật nghiệt ngã ấy…
Cách đây khoảng mười năm, trong một chuyến lên huyện Phù Ninh, Phú Thọ khảo sát về tình hình bảo tồn văn hóa truyền thống ở địa phương, chúng tôi có dịp gặp một nữ cán bộ Đoàn công tác trong ngành văn hóa tỉnh Phú Thọ tên là Lê Thị Hoài, quê gốc Kim Đức, “thủ phủ” của quê hương hát xoan nổi tiếng một thời. Trong chương trình văn nghệ giao lưu sau buổi tọa đàm, chúng tôi đề nghị Hoài trình bày một hai bài xoan truyền thống.
Lúng túng mãi, Hoài mới “bật mí”: “Quê em ở Kim Đức - cái nôi của xoan - thế nhưng thú thực, em không thuộc được một điệu xoan nào”. Câu trả lời ấy của cô cán bộ trẻ khiến chúng tôi quyết tâm về với Kim Đức và gặp được một người bạn đồng hành.
Hát xoan đã được mở rộng ra nhiều địa phương của tỉnh Phú Thọ, nhất là trong lớp trẻ. |
Tên anh là Tài, quê Kim Đức, sáng anh vừa chở sắn khô lên Phú Thọ bán, tiện đường về kiếm thêm người khách để mua quà cho lũ trẻ ở nhà. Vừa đi, chúng tôi vừa hỏi Tài về chuyện hát xoan và truyền thống hát xoan ở quê hương mình. Tài cứ cho chúng tôi là… nhớ nhầm bởi từ nhỏ đến giờ ít khi anh được nghe thấy ai đó nói về quê mình với điệu hát xoan làm nao lòng khách xa khách gần.
Nhưng đó là chuyện của những người không biết đến hát xoan. Còn chúng tôi, những lữ khách đường xa, qua sách vở, đã biết được hát xoan chính là một “báu vật” đang bị lãng quên. Theo sử liệu, khác với quan họ Bắc Ninh, hát xoan ở Phú Thọ mang đầy màu sắc tín ngưỡng. Hát xoan xuất hiện khá sớm ở thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc. Thời ấy, người Văn Lang tổ chức các cuộc hát xoan vào mùa xuân không chỉ để vui chơi mà còn để cầu trời cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt và chúc tụng các vua Hùng. Hát xoan vào mùa lễ hội không chỉ đơn thuần là vui chơi, giải trí mà còn là nơi lưu giữ mạch nguồn tâm linh của dòng giống con Lạc cháu Rồng…
Đận ấy, gần hết một buổi sáng, chúng tôi mới tìm được nhà cụ Trùm Ngũ. Khi nghe chúng tôi trình bày mong muốn của mình, cụ vui vẻ hẳn lên. Cụ bảo lâu lắm rồi mới có những người trẻ tuổi như chúng tôi nói đến chuyện hát xoan. Ở Kim Đức này tuy là cái nôi của làn điệu xoan nhưng đến nay cũng chỉ có những người lớn tuổi như cụ là còn biết đến xoan và còn nhớ một hai bài xoan cổ. Hội làng thỉnh thoảng được tổ chức nhưng các bài xoan đã được đám trẻ thay bằng các ca khúc tây, ta đời mới.
Xoan ở Kim Đức đang đứng trước sự suy vong và nỗi lo thất truyền. Nghèo đói, phiêu bạt, dân Kim Đức đổ đi tứ xứ kiếm ăn, năm hai ba lần về làng. Muốn dạy, muốn lưu giữ truyền thống dân tộc nhưng không có thời gian. Hơn nữa, dạy thì cũng chẳng có người học. Thích, nhớ thì tự mình ê a hát lấy thôi… Niềm trăn trở của cụ Trùm Ngũ chợt như dâng trào đến đỉnh điểm khi cụ trở lại thời hiện tại của hát xoan. Cụ ngậm ngùi bảo: “Bây giờ, nói chẳng ngoa, các cậu đi khắp làng gặp trai gái làng hỏi xoan là gì, cái nôi của xoan ở đâu, tụi trẻ khó mà biết.
Đợt nọ có mấy anh ở Sở Văn hoá thông tin về bảo là đang có chủ trương bảo tồn văn hóa truyền thống dân tộc, tìm đến tôi nhờ lập giúp một phường xoan. Lợi lộc chả có gì, say, thích làm thì làm. Lần mò mãi tôi mới lập được một phường gồm chín đào và hai kép. Kinh phí các anh ấy cho một ít. Mới đầu tụi trẻ cũng nhiệt tình hát hò lắm, nhưng sau không thấy tiền hoa hồng nữa, tụi nó lại bỏ, lại chở sắn lên thành phố buôn bán”…
***
Trái ngược với “tình cảnh” của những giai điệu xoan năm nào, trong chuyến du xuân đầu năm Nhâm Thìn lên đất Tổ Hùng Vương, ở đâu chúng tôi cũng được người dân kể tường tận, cặn kẽ về nguồn gốc và những câu chuyện liên quan tới hát xoan. Theo lời nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch, trùm phường xoan An Thái (Phú Thọ), trước đây, được vào phường xoan là cả một niềm tự hào của gia đình và chòm xóm.
Các phường hội được lập ra rất tự phát, mang đầy màu sắc văn hóa dân gian. Ngơi tay cày bừa, họ lại lao vào tập hát. Mùa lễ hội đến, các phường xoan của thôn xóm lại được tụ họp rồi đi hát thi với nhau thật đông vui. “Hát xoan khó lắm vì nó có những quy tắc nghiêm ngặt của phong tục, tín ngưỡng” - nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch bảo thế. Ngoài chất giọng, dáng điệu, cử chỉ, cái khó nhất là thuộc các quả cách hay còn gọi là làn điệu.
Quả cách bắt đầu nhuần nhuyễn thì mới bắt đầu tập bài theo ba phần: phần lễ nghi tôn giáo, phần trình diễn các quả cách và phần hát hội. Ở phần lễ nghi tôn giáo thì có những “lời” chúc tụng, cầu khẩn và được trình diễn theo đúng nghi thức trước cửa đình, nói lên cảm xúc của con người trước thần linh, sau đó là ca ngợi thánh thần. Ví dụ: “Nay mừng xuân tiết mới sang/Xướng ca tiệc mở dân làng ta đây”, “Trông ơn thánh đế muôn vàn/Dân ta mở tiệc ca xoan phụng thờ”.
Những lời ca này thường là có sẵn. Đào và kép hát xen kẽ, lúc phụ họa lúc đuổi nhau. Múa hát rộn ràng, khỏe mạnh gây được không khí tưng bừng cho ngày hội. Phần trình diễn các quả cách bao gồm ba phần là giáo cách (mở đầu) - đưa cách (phần giữa) - kết cách (phần cuối). Nối tiếp các quả cách thường có láy câu. Riêng phần hát hội lại mang tính chất trữ tình, phản ánh những nội dung giao duyên, yêu đương trai gái. Đây là giai đoạn ứng tác như hát ví, trống quân bao gồm các tiết mục múa, hát, dựng các hoạt cảnh, các trò chơi. Giai đoạn này thường được tiến hành theo các thứ tự: hát ghẹo-giao duyên, xin hoa đố chữ, hát đúm và giã cá…
Cũng theo nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch, tổng cộng xoan cổ gồm hơn 20 bài. Từ nhuần nhuyễn quả cách đến học thuộc được bài là cả một sự khổ luyện và bắt buộc người ta phải có trí nhớ. Ngày xưa, trai thanh gái lịch không vào phường vào hội thì cũng phải tập hát. Hát để dựng vợ gả chồng. “Hồi ấy, không biết hát xoan thì khó kiếm vợ kiếm chồng lắm. Bây giờ thì khác! Hiện nay, toàn tỉnh Phú Thọ còn 69 nghệ nhân hát xoan thì có tới 31 người ở độ tuổi từ 80-104 và chỉ có 8 người có khả năng truyền dạy. Tổng số người tham gia các phường xoan là 81 người thì chỉ có 49 người biết hát…” - nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch cho chúng tôi biết.
Những con số mà nghệ nhân hát xoan Nguyễn Thị Lịch đưa ra quả là có nhiều ý nghĩa, đặc biệt là trong bối cảnh UNESCO xem xét và công nhận hát xoan là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại “cần được bảo tồn khẩn cấp”. Những thông tin mà chúng tôi có được từ Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng như thực tế từ quê hương của những làn điệu hát xoan đã cho thấy cộng đồng sở hữu di sản bắt đầu ý thức được giá trị văn hóa của một thiết chế văn hóa đặc biệt này để gìn giữ và phát huy nó.
Có thể nói không ngoa rằng, sau một thời gian dài bị bỏ bê, hát xoan vừa trải qua một cuộc hồi sinh “vĩ đại”. Bởi, không tính đến yếu tố “quốc tế hóa” hát xoan bằng việc đưa nó trở thành một Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, ngay các động thái mời các nghệ nhân hướng dẫn, truyền dạy loại hình nghệ thuật này cho thế hệ trẻ, tổ chức những cuộc hội thảo, hội diễn về hát xoan, “phát tán” những ca cảnh dựa trên làn điệu xoan nhằm đưa làn điệu này tới mọi miền Tổ quốc của ngành văn hóa tỉnh Phú Thọ đã nói lên điều ấy.
…Và xuân này, cụ Trùm Ngũ, nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch cùng các nghệ nhân hát xoan nơi đất Tổ đã yên lòng vì niềm hy vọng hát xoan sẽ được cái hồn, cái cốt lõi của chính nó, góp phần vào việc bảo lưu được những yếu tố văn hóa cổ của thời đại bình minh dựng nước.
Đình Hùng