Hành trình của một câu ca

10-07-2009 06:08 | Văn hóa – Giải trí
google news

Người Việt Nam nói chung và người dân thủ đô Hà Nội nói riêng đã quá quen thuộc với câu ca dao: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Người Việt Nam nói chung và người dân thủ đô Hà Nội nói riêng đã quá quen thuộc với câu ca dao:

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Về hình thức đây là một câu ca thể lục bát, rất dễ thuộc và dễ nhớ. Đặc biệt nó nhắc đến một loài hoa mà phần lớn người dân đều biết - hoa nhài, loài hoa màu trắng tinh khôi, có một mùi thơm kín đáo, ý vị, không phô trương hương sắc như một số loài hoa khác, rất phù hợp với tính cách của người Á Đông.

Không gian sống của người Hà Nội xưa được bài trí bằng sập gụ, tủ chè... cùng những trang phục truyền thống. 

Về kết cấu và nội dung, câu ca gồm hai vế, ở thể phủ định kép với hai trạng từ "chẳng" và "không" đặt lên đầu câu, khiến cho sự khẳng định càng thêm chắc chắn hơn, như một sự hiển nhiên. Do vậy câu ca có thể được hiểu là thơm như hoa nhài và thanh lịch như người Tràng An. Hai vế ấy đặt cạnh nhau cho phép người ta liên tưởng tới đức tính thanh lịch của người Tràng An được ví như hương thơm của hoa nhài. Và cũng còn một cách hiểu khác nữa là người Tràng An ắt phải thanh lịch, cũng như hoa nhài ắt phải thơm, như một lẽ tự nhiên.

Tuy nhiên, điều làm cho không ít người băn khoăn, thắc mắc ở đây, người Tràng An là người nào, ở đâu mà gắn bó mật thiết với đức tính thanh lịch, như một sự tất yếu không thể phủ nhận được, giống như mùi thơm của hương hoa nhài vậy.

Lần tìm nguyên nghĩa của cụm từ Tràng An, có nhiều cách giải thích khác nhau. Trước hết, Tràng An hay Trường An vốn là tên kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất Trung Quốc: Tiền Hán từ năm 206 trước Công nguyên đến năm thứ 8 sau Công nguyên và triều đại nhà Đường từ năm 618 đến năm 907 đều thuộc vùng Tây An. Cụm từ trên vừa có nghĩa chỉ một vùng đất cố đô xưa của Trung Quốc, vừa có nghĩa chỉ tính chất muôn đời bình yên của hai triều đại nói trên. Từ "tràng" ở đây chỉ là cách đọc chệch và viết chệch của từ "trường". Tương tự như vậy, từ "an" cũng là cách đọc chệch và viết chệch của từ "yên" mà thôi. Trong trường hợp này, sự đọc chệch và viết chệch không làm thay đổi nghĩa từ nguyên của hai từ đó. Với nghĩa danh từ, Tràng An là một cụm từ ghép cố định, chỉ một địa danh. Còn với nghĩa tính từ, Tràng An là cụm từ ghép không cố định, gồm hai tính từ độc lập: "tràng" có nghĩa là dài, lâu bền, còn "an" có nghĩa là bình yên, an lành. Ghép hai tính từ ấy lại cho ta một cụm từ có nghĩa kép là sự bình yên lâu dài.

Tuy nhiên cho đến nay, phần lớn người dân Việt Nam ta, chủ yếu là người Hà Nội, thường hiểu hai từ "Tràng An" như là cụm từ dùng để chỉ thủ đô Hà Nội. Về khía cạnh lịch sử thì có lẽ lại không hoàn toàn như thế. Từ thế kỷ X, năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, thu giang sơn về một mối và lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều đại nhà Đinh. Cùng với việc đặt tên nước ta là Đại Cồ Việt, vua Đinh Tiên Hoàng lấy Hoa Lư, quê hương của mình làm kinh đô và lấy niên hiệu riêng là Thái Bình, với tư cách là một triều đại độc lập, xưng Đế chứ không chấp nhận xưng Vương và quốc hiệu đô hộ của phương Bắc. Từ năm Thái Bình thứ nhất, 976, thuyền buôn của nước ngoài đến kinh đô Hoa Lư dâng sản vật, kết mối giao thương về kinh tế và văn hóa. Từ đó, tinh hoa văn hóa đô thành của Hoa Lư được hình thành và phát triển rực rỡ.

Cô gái Hà Nội đánh cờ cùng cha. 

Thế nhưng, người Tràng An "xịn" lại không phải là người Việt Nam, mà là người dân cố đô của hai triều đại Tiền Hán và Đường ở bên Trung Hoa cổ đại. Tuy ngày nay có thể họ không còn là người dân thủ đô, nhưng ít ra cũng đã có một thời là người dân kinh đô, tức là "tiền thủ đô" hay còn gọi là người "cố đô". Đây là cách danh xưng, mang theo niềm kiêu hãnh, tự hào của người cố đô trong văn hóa giao tiếp với muôn dân thiên hạ, khi họ muốn gợi đến những giá trị văn hóa - lịch sử nằm ẩn sâu từ trong cội nguồn, tiềm thức của dân tộc.

Ngày nay, tại đền Vua Đinh ở cố đô Hoa Lư, có bức đại tự có ghi hàng chữ: "Chính thống thủy" với nghĩa là Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên mở ra nền chính thống cho nước Đại Cồ Việt. Hai bên cột giữa có treo câu đối: "Cồ Việt Quốc đương Tống Khai Bảo/Hoa Lư đô thị Hán Tràng An", tạm dịch nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt ngang hàng với nhà Tống đời Khai Bảo; Hoa Lư là kinh đô Đại Cồ Việt cũng như Tràng An là kinh đô nhà Hán vậy". Ngay sau khi lên ngôi Hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư làm kinh đô. Kinh đô Hoa Lư xưa rộng khoảng 300 ha, gồm Thành Ngoại, Thành Nội và Thành Nam đều nằm trọn ở ba thôn thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay.

Sau khi rời đô về Thăng Long, đất nước vẫn bình yên và phát triển trên vị thế mới, Lý Thái Tổ đã đặt tên cố đô Hoa Lư là Tràng An và đổi kinh đô Đại La thành Thăng Long. Như vậy địa danh Tràng An thứ 2 trên thế giới chính là Hoa Lư.

Trong suốt thời gian trị vì, dưới 2 triều đại Đinh và Tiền Lê, kinh đô  Hoa Lư đương nhiên trở thành trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước. Thời đó, luật pháp chưa phát triển, kẻ nào ăn cắp thì bị chặt tay, tên nào giết người thì ném cho hổ báo ăn thịt. Suốt gần nửa thế kỷ phồn hoa đô thị, muôn dân trăm họ đã không còn nạn 12 xứ quân hoành hành và cũng không còn nạn ngoại bang phương Bắc xâm lược, mọi người đều được sống trong yên bình và no đủ. Thời ấy kinh đô Hoa Lư thật đẹp, người ta thương yêu, đùm bọc nhau, cư xử lễ nghĩa, không có trộm cắp, cướp bóc, đến mức không nhà nào cần phải khóa cửa cả ban ngày lẫn ban đêm. Từ thời ấy, người dân Hoa Lư đã thuộc lòng câu ca: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An". Như vậy có thể hiểu "người Tràng An" trong câu ca này là người dân kinh đô, thủ đô nói chung, chứ không phải chỉ một kinh đô nào cụ thể, vì trong lịch sử, nước ta có bốn kinh đô: Hoa Lư (Tràng An), Thăng Long- Hà Nội, Tây Đô- Thanh Hóa và cố đô Huế.

Ở thủ đô Hà Nội, sau thời kỳ chín năm kháng chiến chống Pháp và hai mươi năm chống Mỹ, nhân dân ta cùng chung tay xây dựng lại đất nước trong hòa bình. Hà Nội ngày nay và kinh thành Thăng Long xưa, trong khung cảnh thanh bình dựng xây đất nước, mãi vẫn là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của cả nước. Người dân thủ đô luôn ý thức rất rõ điều đó và đã tìm ra cho mình một cách ứng xử văn hóa rất đặc trưng, xứng đáng với truyền thống của người Tràng An xưa. Đây cũng là thời kỳ, người dân Hà Nội thi nhau truyền tụng câu ca: "Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An".

Tuy nhiên, trong vài thập kỷ nay, nhất là từ khi nước ta mở cửa nền kinh tế, hội nhập với khu vực và quốc tế, sự giao thương buôn bán, làm ăn với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế khác nhau, cũng như sự tiếp biến văn hóa giữa các vùng miền diễn ra mau lẹ hơn lúc nào hết. Ngoài những yếu tố tích cực do sự giao lưu kinh tế và văn hóa mang lại, nhiều cách ứng xử đã dần làm phôi pha đi những nét đẹp thanh lịch vốn có của người dân kinh đô- thủ đô. Điều ấy đã làm cho không ít người muộn phiền cũng là dễ hiểu.

Đỗ Ngọc Yên


Ý kiến của bạn