Bên cạnh tác dụng điều trị bệnh, các thuốc chống lao có thể gây ra những tác dụng phụ không mong muốn gây bất lợi cho người sử dụng. Vì vậy, trong quá trình sử dụng người bệnh cần nhận biết để phát hiện kịp thời các tác dụng phụ này và thông báo cho bác sĩ điều trị biết để khắc phục hoặc có phương pháp điều trị thích hợp hơn.
Isoniazid (rimifon, INH)
Isoniazid đến nay vẫn được coi là thuốc có ưu thế trong điều trị tất cả các thể lao. Thuốc vừa có tác dụng kìm khuẩn, vừa có tác dụng diệt khuẩn, hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa. Thức ăn và các thuốc chứa nhôm làm giảm hấp thu thuốc (tránh dùng cùng thức ăn hoặc các thuốc có chứa nhôm). Thuốc có thể gây một số tác dụng phụ sau như gây dị ứng thuốc, buồn nôn, nôn, chóng mặt, táo bón, khô miệng, thoái hoá bạch cầu hạt, thiếu máu. Về thần kinh hay gặp viêm dây thần kinh ngoại vi, đặc biệt hay gặp ở bệnh nhân dùng liều cao, kéo dài, nghiện rượu, suy dinh dưỡng và tăng glucose máu (có thể dùng thêm vitamin B6 để hạn chế tác dụng không mong muốn này của isoniazid), viêm dây thần kinh thị giác. Ngoài ra, thuốc có thể gây vàng da, viêm gan và hoại tử tế bào gan (thường hay gặp ở người trên 50 tuổi và những người có hoạt tính acetyltransferase yếu).
Rifampicin
Rifamycin là kháng sinh bán tổng hợp từ rifamycin B có tác dụng diệt khuẩn cả trong và ngoài tế bào. Thuốc không chỉ có tác dụng diệt trực khuẩn lao, phong, mà còn diệt cả các vi khuẩn gram âm, E-coli, trực khuẩn mủ xanh. Trong môi trường acid, tác dụng của thuốc mạnh gấp 5 lần. Đường thải trừ chủ yếu của thuốc là qua gan và thận. Ngoài ra, thuốc còn thải trừ qua nước bọt, đờm, nước mắt. Cần lưu ý do thuốc có màu đỏ nên khi thải trừ các dịch này (nước bọt, nước mắt... ) sẽ có màu đỏ. Điều này không nguy hại và không làm ảnh hưởng gì tới điều trị. Thuốc ít có tác dụng không mong muốn hơn, song có thể gặp ở một số người với các triệu chứng như phát ban, buồn nôn, nôn, sốt, rối loạn sự tạo máu. Vàng da, viêm gan rất hay gặp ở người có tiền sử bệnh gan, nghiện rượu và cao tuổi. Tác dụng không mong muốn này tăng lên khi dùng phối hợp với isoniazid. Không dùng thuốc ở người giảm chức năng gan và trong quá trình điều trị người bệnh cần được theo dõi thường xuyên chức năng gan.
Khám bệnh cho bệnh nhân lao.
Ethambutol (EMB, E)
Đây là thuốc tổng hợp, có tác dụng kìm khuẩn lao mạnh nhất khi đang kỳ nhân lên của vi khuẩn, không có tác dụng trên các vi khuẩn khác. Thuốc có tác dụng kìm khuẩn là do ức chế sự nhập acid mycolic vào thành tế bào trực khuẩn lao, làm rối loạn sự tạo màng trực khuẩn lao...
Khi điều trị lao bằng ethambutol có thể gặp một số tác dụng không mong muốn như: rối loạn tiêu hóa, đau đầu, đau bụng, đau khớp, phát ban, sốt, viêm dây thần kinh ngoại vi, nhưng nặng nhất là viêm dây thần kinh thị giác gây rối loạn nhận biết màu sắc. Không dùng cho người có thai, cho con bú, trẻ em dưới 5 tuổi và người có viêm thần kinh thị giác và giảm thị lực.
Streptomycin
Là kháng sinh thuộc nhóm aminoglycosid có tác dụng diệt khuẩn lao mạnh đặc biệt vi khuẩn trong hang lao và một số vi khuẩn Gram ( ) và Gram (-). Thuốc được phối hợp với các thuốc chống lao khác để điều trị lao.
Cũng như các aminoglycosid khác, tác dụng phụ quan trọng nhất là độc với tai, do tổn thương dây thần kinh ốc tai và tổn thương dây tiền đình gây chóng mặt, chẹn dẫn truyền thần kinh - cơ, phản ứng quá mẫn và hiếm khi gây độc cho thận. Khả năng độc đối với tiền đình ở trẻ em cao hơn người lớn. Ở người bệnh có chức năng thận bình thường, yếu tố chủ yếu liên quan đến độc tính là liều dùng hàng ngày và tổng liều điều trị trong một thời gian nhất định. Chẹn dẫn truyền thần kinh - cơ hay gặp rối loạn thị lực (gặp ở 50% trường hợp), dị cảm (thường xảy ra quanh miệng và cũng có ở các vùng khác trên mặt và tay), viêm dây thần kinh ngoại biên. Phản ứng dị ứng như ngoại ban da, ban đỏ, sốt, mày đay, phù Quincke... cũng là những triệu chứng thường gặp.
Pyrazinamid
Pyrazinamid thường phối hợp với các thuốc chống lao khác để điều trị lao trong 6 tháng đầu, sau đó thay bằng thuốc khác. Thuốc có thể gây một số tác dụng không mong muốn như: đau bụng, chán ăn, buồn nôn, nôn, sốt, nhức đầu, đau khớp. Đặc biệt lưu ý, thuốc có thể gây tổn thương tế bào gan, vàng da. Do vậy, khi điều trị cần kiểm tra chức năng gan trước và trong điều trị. Nếu có dấu hiệu giảm chức năng gan phải ngừng thuốc.
Cần lưu ý, để giảm tỷ lệ kháng thuốc và rút ngắn thời gian điều trị, các thuốc chống lao luôn dùng cùng một lúc (vào thời gian nhất định trong ngày) ít nhất 3 loại thuốc trong 24 giờ và có thể phối hợp 4-5 thuốc trong giai đoạn tấn công 2-3 tháng đầu, sau đó chuyển sang điều trị duy trì. Người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ theo sử chỉ định của bác sĩ, không tự ý bỏ thuốc.