Hai mươi năm phòng dịch nơi biên viễn

10-06-2015 08:00 | Tin nóng y tế
google news

SKĐS - Tốt nghiệp Đại học Y Thái Bình năm 1995, bác sĩ trẻ Nguyễn Trần Tuấn đã quyết định dời quê hương Cố đô Hoa Lư - Ninh Bình để lên với vùng biên viễn xa xôi Hà Giang.

Tốt nghiệp Đại học Y Thái Bình năm 1995, bác sĩ trẻ Nguyễn Trần Tuấn đã quyết định dời quê hương Cố đô Hoa Lư - Ninh Bình để lên với vùng biên viễn xa xôi Hà Giang. Hai mươi năm làm công tác phòng dịch, với tài năng, lòng yêu nghề, sự phấn đấu không ngừng nghỉ vì những người nghèo nơi bản làng heo hút, anh đã giúp người dân đẩy lùi bệnh dịch nguy hiểm, cứu chữa nhiều sinh mạng, được đồng bào nghèo Hà Giang yêu quý và kính trọng…

Những ngày gian khó...

Chưa đầy một tuần sau khi đặt chân lên mảnh đất Hà Giang và về công tác tại Khoa Da liễu - Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh thì Nguyễn Trần Tuấn đã nhận nhiệm vụ cuốc bộ gần hai trăm cây số về tận bản Đoàn Kết, xã Nàn Xỉn, huyện Xín Mần để khám và điều trị cho 02 bệnh nhân phong. Bác sĩ Tuấn nhớ lại: Lúc đó vào cuối mùa thu năm 1995, Giám đốc Sở Y tế Hà Giang đã gọi tôi lên giao nhiệm vụ và bắt chặt tay tôi như gửi gắm một điều gì đó tha thiết lắm. Chú bảo: “Đây là một bản rẻo cao nghèo khó và xa xôi nhất của tỉnh với 100% là người dân tộc thiểu số sinh sống, hầu như không biết tiếng phổ thông. Những người mắc bệnh đã lâu nhưng bị dân làng kỳ thị, xa lánh, giấu bệnh nên không được y tế phát hiện. Việc này chỉ mới được biết đến và báo lên thời gian qua. Cháu là bác sĩ trẻ, lại có chuyên môn cao, chú tin tưởng vào cháu. Về cơ sở không có phương tiện, trang thiết bị khám bệnh mà chẩn đoán, tuyên truyền sai là khó thu phục được lòng dân lắm. Y tế cơ sở vùng cao đang rất yếu vì thiếu cán bộ, dân bản sẽ không nghe theo và chấp nhận điều trị nếu chúng ta không có đủ y đức, trình độ và tâm huyết để thuyết phục họ. Cố gắng lên cháu. Chú tin cháu sẽ làm được”.

ThS. Nguyễn Trần Tuấn chỉ đạo và trực tiếp tham gia công tác cứu chữa người bệnh ngay tại vùng lũ xã Cao Bồ (huyện Vị Xuyên) năm 2008.

Vậy là bác sĩ Tuấn lặng lẽ lên đường. Lúc đó việc đi lại ở Hà Giang khó khăn lắm. Từ tỉnh lên đến huyện cả tuần mới có một chuyến xe khách. Mùa mưa lũ thì tắc đường, lở núi cả tháng cũng không có xe qua. Anh lên Nàn Xỉn đúng vào lúc mưa lở, sạt đường. Vậy là phải cuốc bộ gần 200km đường rừng trên vai là thuốc men, lương khô để tìm về bản. Là một chàng trai vùng đất Cố đô, chưa từng có những chuyến đi thực tế tại các vùng biên xa xôi, nên những khó khăn gặp phải có nằm mơ anh cũng không thể tưởng tượng ra. Nơi đầu tiên người bác sĩ trẻ này đến là một vùng núi cao trùng điệp, hoang vu, xa lạ. Chính sự cách trở về giao thông, ngôn ngữ, phong tục tập quán, cộng với trình độ dân trí thấp, thất học, đói nghèo đã khiến người mắc bệnh phong bao lâu nay bị dân bản kỳ thị, xa lánh đẩy vào sâu trong rừng mà không được chăm sóc sức khỏe. Bản thân người mắc phong cũng giấu bệnh, từ chối điều trị và ngày một tàn tật cả về thể chất lẫn tinh thần. Sự khắc nghiệt đó không chỉ thử thách ý chí, nghị lực mà nó còn thúc giục người bác sĩ trẻ phải có nhiều biện pháp cứu chữa người bệnh. Thế là anh quyết tâm ở lại bản để được chữa cho người mắc bệnh và tuyên truyền chống kỳ thị đối với dân bản. Một ngày, hai ngày, rồi nhiều ngày trôi qua, thấy người bác sĩ trẻ vừa học tiếng, vừa ăn, uống, sinh hoạt cùng người phong mà không mắc bệnh. Vậy là dân bản dần dà cũng tin lời anh nói, còn người mắc bệnh phong cũng yên tâm để cho bác sĩ bắt mạch, kê đơn cho thuốc uống chữa bệnh.

Trở về đơn vị, liên tiếp những tháng ngày sau đó, hình ảnh về bệnh nhân mắc phong sống biệt lập nơi rừng núi hoang vu cứ ám ảnh bác sĩ Tuấn. Anh luôn nung nấu suy nghĩ, không biết ở sau những cánh rừng đại ngàn sâu thẳm và nghèo khó của Hà Giang còn có bao nhiêu người mắc bệnh da liễu đang bị kỳ thị như vậy? Thế là anh quyết tâm xây dựng kế hoạch để báo cáo lãnh đạo đơn vị cho mình đi khắp các bản làng điều tra, tìm hiểu và động viên, chữa bệnh cho họ. Hơn ba năm trời, anh cứ miệt mài cuốc bộ, trèo đèo lội suối đi khắp các bản làng heo hút. Không có vùng núi cao khó khăn nào mà anh không đặt chân đến, không có người mắc bệnh phong nào mà không được anh tìm ra và lên kế hoạch điều trị cho họ. Khi hỏi chuyện về những khó khăn trên quãng đường đi đó, bác sĩ Tuấn cười: “Đôi chân mình đi nhiều quá rồi nên cũng không nhớ đi bản nào là xa nhất và đi được bao nhiêu bản nữa. Chỉ biết là có những mùa mưa đường sạt lở, mình phải khoác thuốc từ tỉnh xuống huyện, từ huyện vào xã, rồi từ xã vào bản. Lội suối, trèo non, mang thuốc từ bản này đi sang bản khác cả tháng mới về đến nhà. Mỗi chuyến đi công tác là phải cuốc bộ vài trăm cây số, nhiều đợt đi cả tháng trời mới trở về. Lúc đó lương khô, cơm nắm là sang. Lúc hết thì mèn mén, nước suối, củ sắn, quả ổi rừng cũng ấm lòng”.

Sau khi hoàn thành công tác điều tra, thống kê, lập sổ theo dõi và cấp phát thuốc định kỳ cho từng người bệnh phong trong toàn tỉnh thì cũng là lúc dịch Than ở bản Pắc Cạm, xã Khâu Vai của huyện Mèo Vạc báo về. Đó là một nơi nằm heo hút cách trung tâm tỉnh lỵ hơn hai trăm cây số và cách trung tâm xã gần một ngày đi bộ men theo triền núi đá và rừng già giáp Trung Quốc. Đường mòn về bản ít dấu chân người hơn chân dê, chân ngựa. Nơi đó 100% dân tộc Mông sinh sống. Vậy là anh lại được điều động sang đội dịch tễ để đi điều tra, lên kế hoạch phòng chống dịch. Tiếp sau dịch Than lại đến dịch bệnh não mô cầu xảy ra ở một số bản heo hút của vùng cao nguyên đá huyện Đồng Văn, Mèo Vạc. Thế là BS. Tuấn tiếp tục gắn công việc của mình vào với các xóm bản xa xôi. Lúc đi thì khoác thuốc, lương khô. Lúc về là các mẫu bệnh phẩm với những cơn đói khát cồn cào. Chị Nguyễn Thị Tình vừa là đồng nghiệp cũng là người vợ của bác sĩ Tuấn chia sẻ: “Lần đầu gặp nhau thấy anh lút thút đội mưa gió đi từ bản về, quần ống cao ống thấp. Rồi một mình lại cặm cụi trong gian nhà tập thể với những bữa ăn thất thường. Vậy là từ chỗ cảm phục, quý mến rồi yêu và gắn bó trọn đời với nhau. Mà dịch lại luôn xảy ra ở những nơi xa xôi heo hút, chỉ đi lại bằng đôi chân. Khắp 195 xã, phường với hơn 2.000 thôn bản trong toàn tỉnh, hễ đâu có dịch là anh lên đường ngay. Nhiều khi con ốm, con sốt mà về nhà cũng chỉ nhận được mảnh giấy anh viết lại là đi công tác đột xuất ở một xóm bản nào đó đang có dịch, đôi khi cũng thấy chạnh lòng. Chống dịch thì ít có kế hoạch trước, anh suốt ngày tiếp xúc với dịch dã nguy hiểm, với mầm bệnh, với gió bão, mưa lũ... biết đâu đấy sẽ có ngày anh lây bệnh, tai nạn nghề nghiệp cũng nhiều lắm, huống hồ tại các bản làng vùng sâu, vùng cao đó công việc dự phòng cho mình là hầu như không có, đôi khi thiếu cả đôi găng tay, cái khẩu trang phòng bệnh cho chính bản thân”.

Ba năm làm cán bộ khoa da liễu, 14 năm làm việc tại khoa kiểm soát dịch bệnh. Ngày mới nhận nhiệm vụ, cả khoa chỉ vỏn vẹn có 5 cán bộ. Thiếu cán bộ có trình độ chuyên sâu cộng với công tác trực dịch luôn phải đảm bảo 24/24h để tiếp nhận thông tin và xử trí kịp thời. Vậy nên ngay sau khi nhận được tin báo anh luôn là người đầu tiên xuống hiện trường để điều tra xác minh dịch tễ, khám cho người bệnh rồi lấy mẫu bệnh phẩm gửi về Trung ương xét nghiệm. Anh cũng là người trực tiếp xây dựng kế hoạch điều trị, dập dịch lâu dài. Các kế hoạch anh tham mưu cho cấp trên luôn bám sát với tình hình thực tế tại địa phương. Bác sĩ Nguyễn Trần Tuấn nhớ lại: “Vụ dịch viêm não mô cầu xảy ra tại các xã huyện Đồng Văn và Yên Minh vào đúng dịp Tết Nguyên đán năm 2005. Thế là mình nằm bản ăn trọn Tết với bệnh nhân, ngay tại vùng dịch để vừa lên kế hoạch, vừa điều trị, báo cáo tình hình với cấp trên cho đến khi khoanh vùng, dập dịch thành công mới được rút về. Không chỉ một bệnh mà bất cứ nơi nào có dịch bệnh thì những cán bộ dịch tễ như chúng mình đều phải làm như vậy”.

Không ngừng học hỏi, ứng dụng để hoàn thiện mạng lưới y tế dự phòng miền núi

Đau đáu với nghề, bác sĩ Tuấn luôn tìm tòi học hỏi trau dồi nghiệp vụ để phục vụ công tác chuyên môn ngày một tốt hơn. Năm 2001 anh đã thi đỗ và tham gia khóa cao học hệ chính quy tại Trường đại học Y Dược Thái Nguyên. Tại đây anh đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ chuyên ngành y học dự phòng với đề tài “Đánh giá thực trạng dinh dưỡng và mô hình bệnh tật ở trẻ em dưới 5 tuổi tại xã Việt Lâm, Vị Xuyên tỉnh Hà Giang”. Đề tài được hội đồng đánh giá xuất sắc và được các bác sĩ chuyên ngành y học dự phòng trong cả nước tham khảo ứng dụng vào thực tế, đem lại hiệu quả cao trong công tác y tế dự phòng của cả nước. Từ đó anh cũng đã nhận được nhiều lời mời chuyển về nơi điều kiện công tác tốt hơn ở Trung ương và các tỉnh vùng đồng bằng. Nhưng lại một lần nữa ThS. Nguyễn Trần Tuấn lại lắc đầu từ chối để quay trở về với bản làng còn tiềm tàng nhiều dịch bệnh nguy hiểm, đó là miền biên viễn Hà Giang.

Trở về đơn vị, anh lại dành nhiều thời gian đến các bản làng heo hút đang có dịch bệnh hoành hành để nghiên cứu thực tiễn mà tham mưu xây dựng và triển khai thành công nhiều đề tài khoa học, tiêu biểu như: Đề tài Xác định tỷ lệ hiện nhiễm kháng nguyên bề mặt của virut viêm gan B ở trẻ em tỉnh Hà Giang giai đoạn 2001 - 2008; Đề án Nâng cấp hệ thống Y tế tuyến huyện giai đoạn 2008 - 2010, Đề án Thực hiện Chuẩn Quốc gia Y tế dự phòng tỉnh giai đoạn 2011 - 2015; Tổ chức triển khai thành công các chiến dịch tiêm chủng mở rộng với quy mô lớn như chiến dịch tiêm bổ sung vắc-xin sởi cho đối tượng 1 - 20 tuổi năm 2007, tiêm bổ sung sởi cho trẻ 1 - 5 tuổi năm 2010 và chiến dịch uống vắc-xin bại liệt bổ sung cho trẻ dưới 5 tuổi tại 7 huyện nguy cơ năm 2011...

Bên cạnh đó anh cũng là một nhân tố đắc lực mời gọi và trực tiếp cùng các Cục, Vụ, Viện Trung ương tham gia hoạt động nghiên cứu và ứng dụng các tiến bộ khoa học để phát triển ngành y tế dự phòng Hà Giang, tiêu biểu như các đề tài: Xác định độc tố vi nấm Orchratoxin trong ngô tại các huyện vùng cao phía Bắc tỉnh Hà Giang (Cục An toàn thực phẩm 2004 - 2005); Nghiên cứu đặc điểm sinh học, đặc tính các loài nấm độc thường gặp tại tỉnh Hà Giang và đề xuất một số biện pháp tuyên truyền giáo dục, dự phòng, cấp cứu và điều trị ngộ độc nấm (Học viện Quân Y, 2007 - 2009); Nghiên cứu đặc điểm dịch tễ bệnh quai bị ở Việt Nam 2006 - 2010, đề xuất giải pháp giám sát và kiểm soát bệnh (Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương; 2006 - 2011)... Đồng thời anh cũng là chủ công trong việc ứng dụng công nghệ thông tin cho hoạt động chuyên môn như: ứng dụng phần mềm giám sát bệnh truyền nhiễm, phần mềm quản lý tiêm chủng mở rộng trên địa bàn toàn tỉnh; xây dựng các phương án dập dịch trên cơ sở khoa học, phù hợp với đặc thù vùng miền địa phương; thiết lập và đào tạo nguồn nhân lực để hoàn thiện mạng lưới y tế dự phòng, góp phần ngăn chặn kịp thời các dịch bệnh xảy ra tại Hà Giang...

Đất khó không phụ công người chăm chỉ...

Năm 2004 BS. Tuấn được Ban Giám đốc Sở Y tế tỉnh Hà Giang và đồng nghiệp trong đơn vị tín nhiệm giao giữ trọng trách Phó Giám đốc kiêm Trưởng khoa Kiểm soát bệnh truyền nhiễm và vắc-xin sinh phẩm của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Hà Giang. Suốt hai mươi năm lên với vùng địa đầu Tổ quốc, từ khi là một cán bộ cho đến lúc là trưởng khoa, rồi phó giám đốc đơn vị anh vẫn luôn miệt mài với công tác điều tra dịch tễ, giám sát dịch bệnh tại các bản làng mà không nề hà khó khăn, gian khổ. Ngược lại, việc cọ sát thực tế đã giúp anh là người luôn được lãnh đạo đơn vị, Sở Y tế, Cục Y tế dự phòng,         

Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương giao tham mưu xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai những đề tài lớn đòi hỏi chuyên môn cao.

Chính việc chủ động, sáng tạo, luôn phát huy tinh thần tích cực, tự giác, năng động và dân chủ trong chỉ đạo điều hành công việc, giúp đỡ đồng nghiệp, anh đã cùng với đơn vị và khoa, phòng hàng năm đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Anh đồng thời còn là một người Chủ tịch công đoàn cơ sở gương mẫu, luôn quan tâm chăm lo đời sống và bảo vệ quyền, lợi ích cho người lao động, được cán bộ trong đơn vị và người dân địa phương yêu quý, tin tưởng. Anh được Thủ tướng Chính phủ, Bộ Y tế, UBND tỉnh, Sở Y tế cũng như các tổ chức liên quan tặng nhiều bằng khen, giấy khen nhiều năm liền. Đặc biệt, năm 2014 anh còn vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Thầy thuốc ưu tú.

Khi nói về đồng nghiệp Nguyễn Trần Tuấn, BS. Đặng Văn Huynh - Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Giang chia sẻ: “BS. Tuấn đã có công đóng góp lớn cùng ngành y tế Hà Giang thanh toán được bệnh bại liệt vào năm 2000, loại trừ bệnh uốn ván sơ sinh vào năm năm 2005, năm 2006 đã loại trừ bệnh được bệnh phong và tiến tới loại trừ bệnh sởi vào năm 2017. Các ổ dịch lớn như viêm màng não nhiều năm liền đã không còn xảy ra. Dịch Than ở Mèo Vạc đã được thu hẹp và quản lý có hiệu quả. Đáng kể nhất là công tác tiêm chủng mở rộng từ chỗ hàng năm chỉ có 20 - 30% số trẻ trong độ tuổi được tiêm vắc -xin phòng bệnh, đến nay con số này đã nâng lên trên 97%. Hà Giang được vinh dự xếp vào hàng cao tương đương với các tỉnh thành đồng bằng có trang thiết bị, điều kiện khám chữa bệnh hiện đại, trình độ dân trí cao hơn hẳn so với Hà Giang. ThS. Nguyễn Trần Tuấn là tấm gương sáng để không chỉ đội ngũ cán bộ làm công tác y tế dự phòng từ tỉnh đến xã học tập noi theo, mà anh còn là tấm gương thầy thuốc điển hình trong phong trào thi đua yêu nước, được cấp trên tin tưởng giao phó nhiệm vụ, được nhân dân yêu quý, kỳ vọng gửi gắm niềm tin”.  

Bài, ảnh: Kim Huệ

 

 


Ý kiến của bạn