Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), tính đến ngày 26/8/2014, số ca nhiễm bệnh và tử vong do virút Ebola tại 4 quốc gia Tây Phi, Guinea, Liberia, Nigeria và Sierra Leone đã lên tới 3.069 trường hợp, trong số này có 1.552 ca tử vong. Nhằm chặn đứng nguy cơ lan truyền bệnh, hiện nay các nhà khoa học đang khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thử nghiệm hai loại thuốc trị Ebola, một cũ và một mới.
1. Thuốc chống cúm Favipiravir để điều trị Ebola
Tờ Dailymail của Anh số ra ngày 25/8/2014 trích dẫn lời ông Yoshihide Suga, Chánh văn phòng chính phủ Nhật Bản, cho hay: Nhật Bản sẵn sàng cung cấp thuốc Favipiravir cho WHO để giúp nhằm chặn đứng dịch sốt xuất huyết do Ebola hiện đang bùng phát tại các quốc gia vùng Tây và Trung Phi. Nếu đề xuất này trở thành hiện thực thì hãng Fujifilm, nơi bào chế loại thuốc này sẽ trở thành ứng cử viên đầu tiên sản xuất thuốc trị Ebola quy mô thương mại. Nguyên thủy, Favipiravir là thuốc trị cúm, được Bộ Y tế Nhật Bản phê duyệt cho lưu thông ngày 24/3/2014 và ngày 25/8 vừa qua lại được phê duyệt tiếp dùng cho bệnh nhân Ebola.
Cũng theo ông Yoshihide Suga, Nhật Bản có thể thỏa mãn các yêu cầu khẩn cấp cho mọi cá nhân về Favipiravir trước khi quyết định chính thức của WHO. Đây là sản phẩm của Toyama Chemical Co, Ltd, công ty con của Fujifilm Holdings để điều trị các loại virút cúm tái phát, hiện có đủ số liếu cấp cho hơn 20.000 bệnh nhân cùng một lúc. Theo ông Takao Aoki, phát ngôn viên của Fujifilm, virút cúm và virút Ebola đều giống nhau và về mặt lý thuyết thì hiệu quả của Favipiravir cũng sẽ tương tự, nhất là trong bối cảnh chưa có thuốc trị Ebola. Favipiravir đã được chứng minh hiệu quả trong phòng thí nghiệm ở trên loài gặm nhấm.
Gần đây, hai chuyên gia người Mỹ, bác sĩ Kent Brantly và nhân viên cứu trợ Nancy Writebol, đã được điều trị bằng một loại thuốc thử nghiệm có tên huyết thanh ZMapp, sản phẩm của hãng San Diego Mapp Biopharmaceutical nhưng chưa được thử nghiệm chính thức trên người, tuy nhiên trong một số trường hợp không chính thức và tự nguyện cho thấy ZMapp đã mang lại kết quả tốt. Không giống ZMapp đã được dùng điều trị cho 6 bệnh nhân Ebola (2 trong số này đã tử vong), Favipiravir lại được sản xuất với số lượng lớn kể từ tháng 3/2014 nên có thể đáp ứng đột xuất một khi dịch bùng phát. Hiện tại Fujifilm đang đàm phán với Cơ quan Quản lý Thực & Dược phẩm Mỹ (FDA) để tiến hành thử nghiệm lâm sàng Favipiravir đối với bệnh nhân mắc virút Ebola, đặc biệt là tại các quốc gia vùng tâm dịch châu Phi.
Favipiravir là loại thuốc uống dạng viên, có tên đăng ký là AVIGAN®Tablet 200mg. Cơ chế hoạt hóa của Favipiravir là dựa vào chất ức chế neuraminidase, có khả năng ngăn chặn sự lan truyền các hạt virus mới và hạn chế việc nhiễm trùng. Liều và cách dùng Favipiravir trong chống cúm đối với người lớn: Một, dùng liều 1600mg, chia 2 lần một ngày và hai, dùng liều 600mg chia hai lần một ngày, uống từ ngày 2 đến ngày 5 trong tổng số 5 ngày điều trị.
2. Huyết thanh ZMapp
ZMapp là loại huyết thanh gồm 3 kháng thể đơn dòng được điều chế từ cây thuốc lá biến đổi gen, đã được sử dụng cho hai nhân viên thuộc tổ chức phi chính phủ Samaritans Purse của Mỹ khi đến công tác tại châu Phi đã bị mắc virút Ebola. Cả hai đều có phản ứng tích cực với thuốc, tuy nhiên, một bệnh nhân khác là giáo sĩ người Tây Ban Nha cũng dùng thuốc này nhưng đã tử vong tại một bệnh viện ở Madrid. Dự án sản xuất ZMapp được bắt đầu cách đây trên một thập kỷ dưới sự hợp tác giữa LeafBio (công ty chi nhánh của Mapp Biopharmaceutical), Defyrus Inc. (Toronto, Canađa), và Cơ quan y tế cộng đồng của hai quốc gia này. Giai đoạn thử nghiệm ZMapp chính thức được khởi động từ tháng 1/2014.
Virút Ebola
Quy trình sản xuất ZMapp có thể tóm tắt như sau: các gen mã hóa kháng thể chiết xuất từ tế bào lai, sau khi được biến đổi gen, để thay các thành phần trong cơ thể chuột bằng thành phần của con người và đưa tiếp vào cây thuốc lá. ZMapp có 3 kháng thể đơn dòng của con người (mAbs) kết hợp “các thành phần tốt nhất của MB-003 (Mapp) và ZMAb (Defyrus / PHAC)”, mỗi sự kết hợp này đều có chứa mAbs. Hai trong số mAbs nói trên nằm trong huyết thanh ZMapp được lấy từ ZMab và một lấy từ MB-003.
Kháng thể đơn dòng MB-003: theo một nghiên cứu công bố trong tháng 9 năm 2012 cho thấy loài khỉ nâu khi nhiễm Ebola đã thoát chết sau khi được dùng MB-003 (hỗn hợp 3 kháng thể đơn dòng có nhiều mô khác nhau về gen) sau một giờ khi nhiễm bệnh. Khi được điều trị trong thời gian 24 hoặc 48 giờ, bốn trong số sáu con khỉ nói trên đã thoát chết, có ít hoặc hoàn toàn không có virút trong máu và có rất ít triệu chứng lâm sàng.
Kháng thể đơn dòng ZMAb: theo nghiên cứu được công bố thồi tháng 11/ 2013 phát hiện thấy những con khỉ nhiễm virút Ebola đã sống sót sau khi dùng liệu pháp với sự kết hợp của 3 kháng thể đơn dòng đặc trưng EBOV-GP (ZMAb) trong vòng 24 giờ sau khi nhiễm bệnh. Kết quả, hai trong số bốn con khỉ được điều trị trong vòng 48 giờ sau khi nhiễm bệnh đã qua khỏi. Các nhà khoa học kết luận, việc điều trị sau phơi nhiễm và tiếp xúc với virút Ebola hoặc phơi nhiễm lần hai trong thời gian 10 và 13 tuần có tác dụng rất tốt, phản ứng miễn dịch của cơ thể tăng lên rõ rệt.
Quy trình sản xuất huyết thanh ZMapp từ cây thuốc lá
Quá trình sản xuất ZMapp được dựa trên hợp chất nicotiana theo quy trình sản xuất sinh học hay còn gọi là quá trình bào chế “dược liệu” của tập đoàn Kentucky BioProcessing, một công ty con của Reynolds của Mỹ. Các kháng thể đơn dòng (mAbs) lần đầu tiên được tạo ra ở chuột bằng cách tiêm cho chúng các kháng nguyên lấy từ virút Ebola, sau đó thu hoạch lá lách của chuột. Tiếp tục hóa lỏng tế bào B để sản xuất kháng thể đơn dòng (mAbs) với các dòng tế bào ung thư để tạo tiếp tế bào lai (hybridomas). Sau khi đã chọn được kháng thể tốt nhất, tiến hành triết xuất lấy các gen mã hóa kháng thể, và một phần nhất định được dùng để thay thế cho phần mã các protein người, quá trình này được gọi là nhân bản. Để tạo ra hệ thống sản xuất mAbs nhân bản ở quy mô thương mại, Mapp dùng cho quá trình được gọi là “Nhà máy sản xuất kháng thể siêu tốc” (RAMP), trong đó dùng tới véc- tơ truyền nhiễm magnICON (ICON di truyền học). Trong quá trình được gọi là viêm nhiễm vĩ mô (magnifection) cây thuốc lá bị nhiễm virút, thông qua dòng khuẩn Agrobacterium. Sau đó, kháng thể được chiết xuất và tinh chế từ cây thuốc lá . Một khi đã các gen mã hóa mAbs nhân bản, chu kỳ sản xuất thuốc lá “trọn bộ” sẽ diễn ra hoặc kéo dài khoảng vài tháng.
Khắc Nam (Theo DM/WSJ - 8/2014)