1. Nguyên nhân gây hạ cam
Bệnh hạ cam là một bệnh lây truyền qua đường tình dục do vi khuẩn Haemophilus, là vi khuẩn gram âm, yếm khí, ưa máu,
Lây truyền từ người này sang người khác qua giao hợp với người có H.ducreyi ở vết loét. Bệnh gặp nhiều ở các nước đang phát triển, đặc biệt ở châu Phi bệnh thành dịch, ngoài ra còn gặp ở châu Á, Mỹ Latinh.
Theo ước tính của WHO, hàng năm có khoảng 6 triệu trường hợp mới mắc. Việt Nam hiện nay hiếm gặp và đa số bệnh nhân ở phía Nam. Nam bị bệnh nhiều hơn nữ, viêm hạch bạch huyết cũng hay gặp ở nam.
Người là vật chủ duy nhất của H. Ducreyi. H. Ducreyi có thể mọc trên môi trường thạch máu, hiện có môi trường nuôi cấy chọn lọc H. Ducreyi từ những năm 1980 do Hammond và cộng sự phát minh. Multiplex PCR (M-PCR) là kỹ thuật có độ nhạy cao nhất chẩn đoán nhiễm H. Ducreyi.
Bệnh hạ cam có đồng yếu tố dịch tễ học trong lây truyền HIV, làm tăng khả năng lây truyền HIV từ 5-9 lần hoặc cao hơn nữa.

Vi khuẩn Haemophilus ducrey xâm nhập vào cơ thể thông qua những vết lở loét nhỏ trên da
2. Triệu chứng hạ cam
Thời gian ủ bệnh thường từ 3-10 ngày và không có tiền triệu. H. Ducreyi xâm nhập qua thượng bì khi quan hệ tình dục. Sau đó đi vào hạch lympho.
Biểu hiện đầu tiên là có các sẩn mềm, xung quanh có quầng đỏ. Sau khoảng 24-48h tiến triển thành mụn mủ. Sau vài ngày đến 2 tuần bị trợt và loét. Vết loét mềm và rất đau, thường vào giai đoạn này người bệnh mới đi khám. Bờ vết loét rõ và không cứng.
Nền vết loét phủ bởi dịch tiết mủ hoại tử màu vàng hoặc xám, dưới là tổ chức hạt mủ, dễ chảy máu. Thường có phù nề xung quanh tổn thương. Số lượng vết loét có thể chỉ có một nhưng thường nhiều do tự lây nhiễm, nữ thường bị nhiều vết loét hơn nam.
Kích thước các vết loét từ 2-10mm, các vết loét có thể liên kết thành một vết loét lớn hoặc thành hình rắn bò. Nếu không điều trị, các vết loét có thể dai dẳng vài tháng gây vết loét to, khi lành sẹo gây xơ hóa chít hẹp bao quy đầu.
Khu trú: nam hay bị vết loét ở bao qui đầu, rãnh qui đầu, thân dương vật. Nữ có ở chạc âm hộ, môi lớn, môi nhỏ, tiền đình âm đạo, âm vật, cổ tử cung, hậu môn…, các vị trí ngoài sinh dục như vú, ngón tay, đùi, niêm mạc miệng.

Các giai đoạn phát triển của bệnh hạ cam
Hạch bẹn viêm đau thường ở một bên và 1-2 tuần sau khi thương tổn đầu tiên xuất hiện. Hạch sưng đỏ, đau, nóng rồi dần dần trở nên mềm lùng nhùng và vỡ tự nhiên. Mủ đặc sánh như kem, nam bị nhiều hơn nữ. Tỷ lệ bệnh nhân bị sưng hạch bẹn khoảng 1/3.
Triệu chứng toàn thân có thể sốt nhẹ, mệt mỏi. Tuy vậy, H.ducreyi không gây nhiễm khuẩn toàn thân hoặc lây truyền sang các cơ quan xa. Bội nhiễm các vi khuẩn yếm khí có thể gây loét và phá hủy cơ quan sinh dục. Trên những bệnh nhân HIV/AIDS thì vết loét lớn hơn, lâu lành hơn và ít bị viêm hạch bạch huyết nặng như người bình thường.
Nam giới thường đi khám chữa vì vết loét thường đau hoặc viêm đau hạch bẹn. Phụ nữ triệu chứng thường không rõ, biểu hiện tùy thuộc vị trí săng khu trú: đau khi đi tiểu, đau khi đi đại tiện, chảy máu trực tràng, đau khi giao hợp hoặc ra khí hư.
Bệnh hạ cam không thấy gây bệnh cho trẻ sơ sinh dù người mẹ đang bị bệnh.
3. Hạ cam có lây không?
Hạ cam là bệnh lây truyền qua đường tình dục, do trực Haemophilus ducreyi gây bệnh. Nên bệnh có thể lây truyền từ người này sang người khác qua giao hợp với người có H.ducreyi ở vết loét.
4. Phòng ngừa hạ cam
Để phòng ngừa bệnh hạ cam việc quan hệ tình dục thủy chung và sử dụng biện pháp an toàn là quan trọng. Việc sử dụng bao cao su đúng cách trong quan hệ tình dục không chỉ giúp ngăn ngừa lây nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STIs), bao gồm hạ cam, mà còn giảm nguy cơ mang thai ngoài ý muốn. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả tối đa, cần đẩy mạnh truyền thông và giáo dục về cách sử dụng bao cao su hiệu quả, đồng thời giải quyết các rào cản tâm lý, văn hóa hoặc tài chính khiến nhiều người ngại sử dụng.
- Chỉ quan hệ tình dục với 1 người và chắc chắn rằng đối tác tình dục của mình không bị nhiễm bệnh.
- Kiêng quan hệ tình dục khi mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh.
- Đảm bảo mủ từ vị trí nhiễm bệnh không dính vào bất kỳ vùng da nào khác trên người hoặc dính vào cơ thể của người khác.
- Sau khi điều trị, cả bệnh nhân và bạn tình cần tuân thủ các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm như sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục và duy trì thói quen kiểm tra sức khỏe định kỳ.
5. Điều trị hạ cam
Việc điều trị bệnh hạ cam cần được bắt đầu sớm ngay từ khi xuất hiện các dấu hiệu nghi ngờ nhiễm bệnh. Bác sĩ thường chỉ định kháng sinh trong điều trị cùng các loại thuốc được khuyến cáo như: Ampixilin, Sulfamides, Chloramphenicol, Tetraxyclin, Kanamyxin, Streptomycin, Ciprofloxacin, erythromycin và co-trimoxazole.
Bệnh thường đỡ sau 2-3 ngày điều trị và khỏi sau khoảng 1 tuần. Hạch bẹn sưng thường khỏi chậm hơn, có thể phải chọc hút qua da lành để hút mủ trong hạch. Không dùng Ciprofloxacin cho phụ nữ có thai và cho con bú.
Các phác đồ trên cũng áp dụng điều trị cho bệnh nhân nhiễm HIV, tuy nhiên thời gian điều trị thường lâu hơn và thất bại điều trị có thể xảy ra với tất cả các loại thuốc.
Xét nghiệm HIV và giang mai cần được làm ngay, nếu kết quả âm tính cần cho xét nghiệm lại sau 3 tháng.
Điều trị cho bạn tình nếu có triệu chứng bệnh và người có quan hệ tình dục trong vòng 10 ngày trước khi xuất hiện triệu chứng bệnh.
Bệnh nhân HIV mắc bệnh hạ cam có thể được điều trị bằng các phác đồ trên. Tuy nhiên, thời gian điều trị thường kéo dài hơn và nguy cơ thất bại điều trị cao hơn. Bệnh nhân hạ cam cần được sàng lọc cả giang mai và HIV ở thời điểm khám và xét nghiệm lại sau 3 tháng nếu kết quả âm tính.
Thời gian để giảm các triệu chứng phụ thuộc vào kích thước ổ loét, thường sau 3 đến 7 ngày sau điều trị; tuy nhiên, vết loét lớn cần trên 2 tuần. Ngoài ra, sự hồi phục chậm hơn ở đối tượng nam giới chưa cắt bao quy đầu có vết loét dưới bao quy đầu.
Nếu bệnh nhân không đáp ứng điều trị, cần cân nhắc tới các nguyên nhân: Chẩn đoán chưa chính xác. Bệnh nhân đồng nhiễm với bệnh lây truyền qua quan hệ tình dục khác. Bệnh nhân nhiễm HIV. Không tuân thủ điều trị. Vi khuẩn H.ducreyi thuộc nhóm kháng thuốc.
Cùng với việc điều trị, đối tác tình dục của người bệnh cũng cần được kiểm tra và điều trị dự phòng nếu phát sinh quan hệ tình dục với bệnh nhân trong 10 ngày trước khi người bệnh bắt đầu có triệu chứng.
Sau khi có chẩn đoán mắc bệnh 3 tháng, người bệnh nên làm xét nghiệm huyết thanh và giang mai.