Clip Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến ghi nhận những đóng góp của GS. Klaus Krickeberg đối với Việt Nam (video: BV)
Lễ trao Huân chương Hữu nghị cho GS.Klaus Krickeberg
Chiều tối ngày 26.2, tại trụ sở Bộ Y tế đã diễn ra Lễ trao Huân chương Hữu nghị, Huân chương cao quí của Nhà nước CHXHCN Việt Nam cho Giáo sư Klaus Krickeberg. Ông là một chuyên gia hàng đầu thế giới, người đã có hơn 42 năm liên tục (từ năm 1965 tới nay) giúp đỡ rất hiệu quả cho ngành Y Tế Việt Nam, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan tới Y Tế dự phòng, Y tế công cộng.
Lễ trao tặng Huân chương Hữu nghị cho GS. Klaus Krickeberg
GS. Klaus Krickeberg, sinh ngày 01/03/1929 tại Ludwigslust, CHLB Đức, nguyên Giáo sư trường đại học Paris 5, Cộng hòa Pháp, và nhiều trường Đai học tại Đức và Pháp, là người bạn thân thiết cả về chuyên môn và trong cuộc sống của nhiều Giáo sư hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực Y khoa và Toán học: cố GS. Tôn Thất Tùng, GS. Hoàng Thủy Nguyên, cố GS. Đặng Đức Trạch,…, và là người đồng nghiệp, người thầy được nhiều cán bộ khoa học Việt Nam kính trọng.
Bộ Y tế đánh giá rất cao tình cảm, sự tâm huyết và đóng góp quí báu của GS Krickerbeg dành cho lĩnh vực y tế Việt Nam nói riêng và cho đất nước Việt Nam nói chung trong thời gian qua.
Để ghi nhận và biểu dương những nỗ lực và đóng góp cho ngành y tế Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Y tế đã đề nghị Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam trao tặng Huân chương Hữu nghị cho GS Krickerbeg. Đây là phần thưởng cao quý nhất mà Nhà nước CHXHCN Việt Nam tặng thưởng cho các cá nhân nước ngoài đã có đóng góp to lớn vào xây dựng tình hữu nghị và hợp tác bền chặt giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế và Việt Nam.
Người bạn thân thiết của Việt Nam
GS Klaus Krickeberg một trong những người trẻ nhất được phong hàm giáo sư tại Đại học Heidelberg, là nhà toán học làm về xác suất đầu tiên và duy nhất thời hậu chiến, cùng giúp xây dựng ngành xác suất từ con số không sau khi Quốc xã phá tan nền khoa học đỉnh cao của nước Đức. Năm 1968, ông đã được bầu làm “Fellow” của “Institute of Mathematical Statistics” của Hoa Kỳ, một vinh dự rất lớn. Sự công nhận lớn nhất dành cho ông là từ 1977-1979, ông được bầu làm Chủ tịch của “Bernouilli Society for Mathematical Statistics and Probability”, tổ chức quốc tế trong lĩnh vực này. Ngoài ra, 1983, ông được bầu làm viện sĩ của “Hàn lâm viện Khoa học Đức Leopoldina”.
Clip Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến ghi nhận những đóng góp của GS. Klaus Krickeberg đối với Việt Nam (video: BV)
Năm 1965 một việc làm đã đưa ông vào một cuộc dấn thân có tính “định mệnh” mà có lẽ lúc đó ông cũng chưa hình dung hết, là góp tiền cho Vietnam Hilfsaktion, một tổ chức nhân đạo ở Cộng hòa Liên bang Đức quyên góp giúp Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Mối liên hệ của ông với Việt Nam hình thành từ đó. Năm 1966, ông đã ký tên vào Tuyên cáo phản đối Chiến tranh Việt Nam của các nhà toán học tham dự Hội nghị toán học quốc tế lần thứ 15 tại Moscow, do sáng kiến của nhà toán học Pháp Laurent Schwartz (giải Fields 1950). Năm 1966 được đánh dấu bằng việc Mỹ bắt đầu oanh tạc miền Bắc, đồng thời bằng sự hình thành của phong trào phản chiến Mỹ ở UC Berkeley, với sự tham gia của nhà toán học Mỹ Stephen Smale (giải Fields 1966).
Từ 1965 đến thời điểm 2016, tức hơn nửa thế kỷ, tổng cộng ông đã thăm và làm việc với Việt Nam cả thảy 31 lần. Trong các nhà khoa học nước ngoài đã từng ủng hộ cuộc đấu tranh chống chiến tranh, có lẽ Giáo sư Klaus Krickeberg là một trong rất ít người, hay duy nhất, vẫn miệt mài công việc hỗ trợ Việt Nam trong công cuộc xây dựng hòa bình. Với uy tín khoa học của mình, ông đã góp phần giúp phá thế cô lập của Việt Nam về khoa học, và còn xây dựng nền toán học ứng dụng, đặc biệt trong lĩnh vực y tế công cộng.
Người xây nền toán học ứng dụng trong lĩnh vực YTCC
Từ 1980 trở đi, với tư cách là Giáo sư cấp ngoại hạng (Professeur de Classe exceptionnelle), ông đã dạy 12 năm liền những ý tưởng về Y tế công cộng. Ông đã dành cho sinh viên Toán ứng dụng của ông ở Đại học Paris V một khóa học về “Dịch tễ học” theo nghĩa rộng, bao gồm cả Dịch tễ học lâm sàng và các thử nghiệm lâm sàng cụ thể.
Lễ trao tặng Huân chương Hữu nghị cho GS. Klaus Krickeberg
“Chương trình bao gồm 6 giờ lý thuyết và thực hành hàng tuần suốt toàn năm học. Trong đó có nhiều kiến thức Thống kê, nhưng cũng chứa các nội dung khác như Phương pháp mô hình hóa rời rạc trong di truyền học dân số và mô hình hóa phát triển dịch bệnh bằng phương trình vi phân, theo cả hai cách tiếp cận tất định và ngẫu nhiên. … Đó là chương trình mà ông đã thực hiện ở Việt Nam bằng giảng dạy và thực hành 35 năm liền. Năm 1998, ông nghỉ hưu tại ĐH Paris, nhưng chưa nghỉ hưu đối với Việt Nam.
Clip Bộ trưởng Y tế trao tặng Huân chương Hữu nghị cho GS. Klaus Krickeberg (Video: BV)
“Tham vọng” của GS Krickeberg là đưa ngành Y tế công cộng Việt Nam, về nhân sự, cấu trúc, trình độ khoa học trong nghiên cứu và giảng dạy, tính chuyên nghiệp, năng lực ứng dụng toán học, óc tổ chức, sự vận hành bộ máy, lên mặt bằng thế giới, hay tương đương, và nâng vị thế của y tế công cộng trong ý thức của cộng đồng khoa học và dân chúng, cũng như cải thiện vị thế và điều kiện làm việc của các giảng viên.
Những người Việt công tác với ông đều rất trân quý ông, coi ông là người bạn lớn của Việt Nam.
Clip Lễ trao tặng Huân chương Hữu nghị cho GS. Klaus Krickeberg
Nhân dịp này, báo SKĐS đã có cuộc phỏng vấn với GS. Klaus Krickeberg:
PV: Cảm nhận của Giáo sư khi nhận được Huân chương Hữu nghị trong Ngày Thầy thuốc Việt Nam? Việt Nam có ấn tượng gì trong lòng Giáo sư trong suốt những năm tháng vừa qua?
GS.Klaus Krickeberg: Tôi đã làm việc với Việt Nam trong suốt hơn 40 năm qua, cả về khoa học và y tế. Tôi đến Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1974. Việt Nam ngày đó rất khác so với bây giờ.
Vào mùa hè năm 1974, tôi có bài giảng tại một hội thảo ở Hà Nội cho một số nhà toán học trẻ tuổi. Có những nhà khoa học khác tiếp cận tôi và hỏi tôi về vai trò của toán học trong lĩnh vực của họ. Có những nhà khoa học thuộc lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp nhưng hầu hết là từ ngành khoa học sức khỏe. Tôi đã có cuộc thảo luận dài và thú vị với giáo sư Tạ Quang Bửu và thầy thuốc Tôn Thất Tùng.
Tuy nhiên, những lần gặp có nhiều ý nghĩa nhất và có tác động lâu dài nhất là với Hoàng Thủy Nguyên. Ông là một nhà virus học nhưng ông nhận thức rất đầy đủ về tầm quan trọng của toán học trong y học và Y tế Công cộng.
Tôi đã giành được một số danh hiệu như Kỷ niệm chương Vì Sức khỏe Nhân dân (2009), Giáo sư Danh dự Trường Đại học Y-Dược Thái Bình, và hôm nay tại đây, tôi lại được nhận Huân chương Hữu nghị của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về cống hiến cho sự phát triển của ngành y tế. Đây thực sự là một vinh dự to lớn mà tôi vô cùng biết ơn.
Kỷ niệm đáng nhớ của tôi với Việt Nam là vào năm 1980, "Nhóm Toán" của chúng tôi làm việc trong một căn hộ nhỏ bé tại tầng trệt của Viện Vệ sinh Dịch tễ Quốc gia. Mối sáng tới cơ quan bằng xe đạp. Hồi đó trên đường phố Hà Nội hầu như không có xe máy. Có một buổi sáng, người tạp vụ của Viện và tôi cùng tới Viện bằng xe đạp. Gặp nhau ở cổng viện, anh ta nói với tôi rằng: "Kơ Rí Cơ Bé là một người Việt Nam." Đó có lẽ là kỷ niệm không thể quên về quá trình gắn bó với Việt Nam.
Clip GS. Klaus Krickeberg trăn trở với y tế công cộng
PV: Xin Giáo sư có thể chia sẻ những trăn trở của ông đối với ngành y tế công cộng?
GS.Klaus Krickeberg: Điều khiến tôi trăn trở là có những lần gặp gỡ sinh viên của mình ở Việt Nam và hỏi họ tại sao họ đến với y khoa. Đa phần sinh viên trả lời muốn trở thành bác sĩ lâm sàng thay vì theo đuổi ngành y tế công cộng. Bởi là bác sĩ, họ có thể kiếm nhiều tiền hơn là chuyên gia y tế công cộng. Điều này khiến tôi có phần trăn trở. Điều quan trọng là cần phải trao cho giảng viên y tế công cộng, khoa y tế công cộng tại các trường đại học cùng địa vị như giảng viên đào tạo bác sĩ lâm sàng. Ví dụ như liên quan đến chứng nhận về phẩm chất năng lực, địa vị, thu nhập, thời gian rảnh rỗi, khả năng nghiên cứu, và cả thực hành y tế nữa. Thầy thuốc y tế công cộng nên được đối xử bình đẳng và được coi trọng như bác sĩ lâm sàng.
PV: Xin cảm ơn Giáo sư.