Nghiện rượu là nguyên nhân gây ra rất nhiều biến chứng về tiêu hoá, gan mật cũng như về thần kinh. Rượu có thể gây tổn thương đồng thời cả hệ thần kinh trung ương và ngoại biên. Trong nội dung bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu về các biến chứng thần kinh do rượu và các thuốc giúp họ ổn định tâm thần.
Say rượu
Say rượu xảy ra khi uống quá nhiều rượu đột ngột, gồm say rượu đơn thuần và say rượu bệnh lý. Khi bị say rượu đơn thuần, người uống rượu bị thay đổi về khí sắc, mất ức chế về thái độ, nói liên tục không ngừng, nói khó và mất điều hoà động tác (đi loạng choạng, đi hình zíc zắc). Say rượu bệnh lý thể hiện bởi những rối loạn nặng về thái độ như hưng phấn vận động với những cơn quá khích và bạo lực; hoang tưởng với ảo giác, hay gặp nhất là hoang tưởng ghen tuông và hoang tưởng bị truy hại.
Bác sĩ đang cho bài tập kiểm tra đối với một người cai rượu. Ảnh: H.Minh
Say có thể dẫn đến hôn mê do rượu, có thể dẫn đến những biến chứng nặng như truỵ mạch, tụt huyết áp, suy hô hấp, co giật, tiêu cơ vân có thể dẫn đến nguy cơ tăng kali máu và suy thận cấp, hạ đường máu, toan máu, viêm gan cấp hay viêm tuỵ cấp.
Để giúp người say rượu mau chóng thoát khỏi cơn say và các rối loạn tâm thần, cần theo dõi chặt người say về ý thức, huyết áp, nhịp thở, dấu hiệu thần kinh khu trú. Trong trường hợp bệnh nhân kích thích, vật vã có thể hỏi ý kiến bác sĩ hoặc dược sĩ về việc dùng thuốc an thần. Nếu người say rượu bị hôn mê, cần đưa ngay đến bệnh viện để được làm sạch đường hô hấp và cho thở ôxy, bù nước, điện giải và dung dịch đường, vitamin B1. Cần theo dõi chặt chẽ về ý thức, mạch, huyết áp, tần số thở, đồng tử, lượng nước tiểu.
Hội chứng “ngưng rượu”
Hội chứng ngưng rượu là do ngừng hoặc giảm đột ngột uống rượu ở những người nghiện rượu mạn tính. Ngưng rượu dẫn đến những rối loạn về thần kinh và tim mạch. Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh sẽ tiến triển nặng hơn và gây nên tình trạng “sảng rượu”.
Những triệu chứng sớm của ngưng rượu: run, lo lắng, cáu gắt, mất ngủ; nôn, ăn kém; nhịp tim nhanh, tăng nhẹ huyết áp, tăng tiết mồ hôi; động kinh toàn bộ cơn lớn, có thể xuất hiện ngay sau cai rượu 6 giờ.
Khi người nghiện rượu gặp phải hội chứng này thì cần đưa đến cơ sở y tế để được chăm sóc đúng. Cần cho uống nhiều nước, ít nhất 2lít/ngày gồm nước lọc, nước ngọt, dung dịch mặn. Cung cấp thêm các vitamin nhóm B (B1, B6). Tùy từng bệnh nhân mà bác sĩ sẽ chỉ định cho dùng thuốc an thần và dùng thuốc điều trị nguyên nhân.
Sảng rượu
Người bệnh sẽ rơi vào tình trạng lú lẫn, mất định hướng không gian - thời gian; ảo giác và ảo ảnh, nhất là thị giác; mất ngủ, đảo ngược nhịp ngày đêm; kích thích, rối loạn nhân cách với những hoạt động tưởng tượng phù hợp với tình trạng sảng. Các dấu hiệu về thần kinh ở những người sảng rượu là run; nói khó; rối loạn thăng bằng và phối hợp động tác; có cơn động kinh. Các triệu chứng toàn thân là sốt, tăng nhịp tim, hạ huyết áp, mồ hôi nhiều, có dấu hiệu mất nước.
Khi người bị sảng rượu thường gặp trụy tim mạch do mất nước cấp; đồng thời do mất kiểm soát, rơi vào tình trạng lú lẫn, ảo giác, nên người bệnh dễ tự sát hoặc tấn công người khác.
Khi thấy người thân có dấu hiệu sảng rượu, cần đưa đến bệnh viện sớm để được bù nước điện giải bằng dung dịch muối đẳng trương và dung dịch ngọt đẳng trương. Cung cấp các vitamin nhóm B, dùng thuốc an thần. Điều trị yếu tố khởi phát (nếu có) và các bệnh lý phối hợp khác.
Các bệnh thần kinh do rượu khác
Bệnh đa dây thần kinh: Bệnh xuất hiện do kết hợp hai cơ chế: ngộ độc rượu mạn và thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu nhiều loại vitamin (B1, B2, PP). Bệnh đa dây thần kinh chiếm khoảng 10% ở những bệnh nhân nghiện rượu. Bệnh tiến triển chậm, biểu hiện bằng tê bì kiến bò, rát bỏng kèm liệt nhẹ ở hai chân hoặc tứ chi, có thể kèm theo teo cơ hoặc không. Để điều trị bệnh, cần giảm rượu dần sau đó bỏ rượu (cai rượu) phối hợp với uống vitamin nhóm B, PP và tập luyện.
Viêm thị thần kinh: Hiện còn chưa rõ về cơ chế gây bệnh viêm thị thần kinh ở người nghiện rượu, nhưng người ta cho rằng bệnh liên quan đến thiếu nhiều vitamin, chủ yếu là vitamin B1 và ngộ độc (đặc biệt liên quan đến ngộ độc thuốc lá phối hợp). Bệnh biểu hiện bằng giảm dần thị lực trong vài tuần hoặc vài tháng, giảm đều cả hai bên với ám điểm trung tâm, gai thị nhạt màu. Điều trị bằng vitamin nhóm B và cai rượu.
Teo tiểu não: Đây là loại biến chứng hay gặp, cơ thể chưa rõ. Teo khu trú thuỳ nhộng và hai bán cầu tiểu não. Bệnh hay gặp ở nam giới, xung quanh tuổi 50. Bệnh tiến triển âm thầm trong nhiều tuần, biểu hiện lâm sàng bằng triệu chứng rối loạn dáng đi liên quan đến tổn thương tiểu não tĩnh trạng, tổn thương tiểu não động trạng thường kín đáo hơn.
Bệnh não Wernicke: Đây là bệnh hay gặp, xuất hiện ở những người nghiện rượu mạn nhưng cũng có thể gặp ở những người suy dinh dưỡng không nghiện rượu.
Yếu tố khởi phát cơn trong bệnh này là thiếu vitamin B1 (vitamin B1 có vai trò quan trọng trong chuyển hoá glucid), mặt khác nó cũng được giải phóng ở cúc tận cùng của hệ Cholinergic. Dấu hiệu của bệnh được biểu hiện bằng rối loạn tiêu hoá (buồn nôn, nôn), gầy sút cân, ý tưởng chậm chạp với khuynh hướng ngủ gà, giai đoạn khởi phát kéo dài vài ngày đến vài tuần, bệnh tiến triển nặng dần, một số trường hợp khởi phát cấp tính do ăn quá nhiều glucid. Tiếp theo bệnh nhân có lú lẫn, ngủ nhiều, bịa chuyện, rối loạn trí nhớ, nhận biết sai gợi ý hội chứng Korsakoff. Rối loạn dáng đi liên quan đến hội chứng tiểu não, có thể nặng lên bởi bệnh đa dây thần kinh, rối loạn thăng bằng với dạng chân đế; Các biểu hiện ở mắt như rung giật nhãn cầu, liệt dây VI và dây III; tăng trương lực chống đối, tăng nhịp tim.
Trong bệnh lý này nếu được chẩn đoán và điều trị kịp thời thì những rối loạn về dáng đi và thị giác hồi phục nhanh, còn nếu chẩn đoán và điều trị muộn, nguy cơ tử vong hoặc để lại di chứng hội chứng Korsakoff.
Hội chứng Korsakoff: quên thuận chiều, không có khả năng ghi nhận thông tin mới, mất định hướng trong không gian và thời gian, bịa chuyện, nhận biết sai, mất nhận biết đồ vật.
Nguyên nhân hay gặp là thiếu vitamin B1 ở bệnh nhân nghiện rượu mạn dẫn đến tổn thương hai bên (không nhất thiết cân xứng) của vòng cá ngựa - thể núm vú và đồi thị; Triệu chứng lâm sàng được hình thành một cách từ từ và trong 80% các trường hợp tiếp theo bệnh não Wernick nếu không được điều trị kịp thời. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như u não, nhồi máu não, chấn thương.
BSCKII. Nguyễn Cường