Chứng bốc hỏa là chứng bệnh thường gặp, nhất là phụ nữ thời kỳ tiền mãn kinh. Theo y học cổ truyền, chứng hỏa là khí nóng trong người phát ra, bệnh phần nhiều do vốn chân âm hư, ăn uống không phù hợp, hoặc do tình chí tức giận thái quá. Ngoài ra, thời tiết nắng nóng quá cũng là nguyên nhân khiến hỏa bốc lên. Nếu không phòng trị có thể phát sinh nhiều thứ bệnh do hỏa.
Cúc hoa (trên) và mạch môn đông (dưới) là hai vị thuốc có tác dụng trị chứng hỏa biểu hiện: miệng khô khát như có hỏa đốt ở họng, ăn mau đói, đại tiện táo…
Hải Thượng Lãn Ông cho rằng “chân hỏa là khí nóng trong thân người, hộ vệ cho thân thể, nếu kém thì bệnh mà mất đi thời chết”. Chữa hỏa phải dùng cách “tòng trị”, nương theo tính của hỏa để dẫn nó về chỗ cũ, thường gọi là “dẫn hỏa quy nguyên”. Sau đây là một số bài thuốc có công năng chữa hỏa theo thể chứng thường gặp:
Thể can vị hỏa: Biểu hiện bốc hỏa lên trên đầu và vượt ra ngoài như nóng. Người bệnh thường đau nóng đỉnh đầu, mặt đỏ, miệng khô khát... Phép trị là thanh can, mát vị giáng hỏa, giải nhiệt tà. Dùng bài Tả can vị hỏa thang: cát căn 120g, nhân sâm 40g, thăng ma 12g, thanh hao 12g, hoàng kỳ 12g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: thanh hỏa dưỡng âm, giáng hỏa, ích nguyên khí... trị các chứng hỏa hay đau đầu miệng khô khát, mặt đỏ, ra nhiều mồ hôi đầu, nóng tiểu vàng, đại tiện táo.
Thể phế hỏa: Người bệnh thường biểu hiện miệng khô khát, họng như có lửa đốt, hay bị ho khan đàm vàng... Phép trị là thanh phế thanh vị dưỡng âm, ích khí sinh huyết, giáng hỏa... Dùng bài Tả phế vị hỏa thanh vị thang gia giảm: sinh địa 20g, nhân sâm 20g, trúc diệp 20g, cúc hoa 16g, đơn bì 16g, bạch giới tử 12g, trần bì 12g, mạch môn 20g . Sắc uống ngày 1 thang. Công dụng: thanh phế, mát vị dưỡng âm, giáng hỏa... Trị các chứng hỏa miệng khô khát như có hỏa đốt ở họng, ăn mau đói, đại tiện táo khó, người nóng ra nhiều mồ hôi...
Thể thận hỏa: Người bệnh thường biểu hiện nóng vùng thắt lưng, 2 bàn chân, đi tiểu vàng... Phép trị là thanh thấp nhiệt, dưỡng âm, thông ứ... Dùng bài Tri bá địa hoàng hoàn: thục địa 32g, hoài sơn 18g, đơn bì 18g, sơn thù 12g, phục linh 12g, trạch tả 14g, sa tiền tử 10g, tri mẫu 12g, hoàng bá 12g. Các vị làm hoàn, ngày uống 8-12g, uống 2-3 lần với nước sôi để nguội hoặc nước muối nhạt. Công dụng: tư âm giáng hỏa thanh thấp nhiệt...
Thể hư hỏa: Người bệnh thường biểu hiện hay bốc nóng lên đầu mặt, miệng khô khát, đại tiện táo... Phép trị là bổ âm thanh hỏa... Dùng bài Lục vị hoàn gia giảm gồm: thục địa 40g, hoài sơn 18g, sơn thù 12g, đơn bì 16g, trạch tả 12g, phục linh 12g, ngưu tất 12g, mạch môn 12g, ngũ vị 10g. Các vị làm hoàn, ngày uống 8-12g, chia 2-3 lần. Người xưa có câu “Lão nhi bất ly Lục vị” với hàm ý khi điều trị cho người già và trẻ em cần quan tâm đến dưỡng âm, nếu âm huyết đầy đủ thì hỏa tự binh, người khỏe, ít bệnh tật.
Lương y Minh Phúc