Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đưa ra 7 giải pháp quan trọng cho công tác dân số trong tình hình mới.
Thực trạng dân số nước ta hiện nay
GS.TS. Nguyễn Đình Cử, Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện Nghiên cứu dân số, gia đình và trẻ em cho biết, những điểm nổi bật của dân số nước ta hiện nay bao gồm mức sinh thay thế (bình quân mỗi bà mẹ có 2,1 con) chưa đồng đều, có những vùng có mức sinh giảm sâu nhưng có vùng mức sinh còn cao, thậm chí trên 3 con; từ năm 2006 nước ta đã xuất hiện cơ cấu dân số vàng, nghĩa là trước đây tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động thấp, khoảng 53% thì bây giờ lên tớ 70%; từ 2011 bắt đầu vào quá trình già hóa dân số; chất lượng dân số ngày càng được nâng lên nhưng chưa cao, vẫn xếp vị trí 115-116/200 nước được so sánh, tức là vào mức thấp so với thế giới; vấn đề di dân ngày càng sôi động; mất cân bằng giới tính khi sinh, hiện nay, tỷ số giới tính là 115,3 trẻ trai /100 trẻ gái. Bên cạnh đó, trong Nghị quyết số 21- NQ/TW, Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng chỉ rõ một số hạn chế khác của công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình ở nước ta như tỷ lệ suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Tầm vóc, thế lực của người Việt Nam chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình quân tăng nhưng số năm sống khỏe mạnh thấp so với nhiều nước. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn phổ biến ở một số dân tộc ít người. Phân bố dân số, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập.Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn hạn chế.Công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, vai trò nhà trường còn hạn chế. Nội dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào kế hoạch hóa gia đình…
Nội dung tuyên truyền cần chuyển mạnh sang vấn đề dân số và phát triển.
Giải pháp khắc phục tồn tại trong công tác dân số
Ban Chấp hành Trung ương Đảng chỉ rõ để công tác dân số đạt được những mục tiêu đề ra thì trước tiên cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp về công tác dân số. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chủ trương, chính sách về công tác dân số, nhất là sinh đủ 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt, gia đình hạnh phúc, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội... Ngoài ra, Nghị quyết số 21-NQ/TW còn nhấn mạnh các biện pháp:
Về công tác tuyên truyền cần chuyển mạnh nội dung sang chính sách dân số và phát triển nhưng vẫn tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con…
Về hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số với việc rà soát, điều chỉnh hoặc bãi bỏ một số quy định về xử lý vi phạm trong công tác dân số, lựa chọn giới tính thai nhi, chăm sóc, phát huy vai trò của người cao tuổi…
Về mạng lưới và chất lượng dịch vụ về dân số cần phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động về quy mô, cơ cấu, chất lượng và phân bố dân số. Tiếp tục củng cố mạng lưới dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, dịch vụ tầm soát, chẩn đoán sớm bệnh tật trước sinh, sơ sinh, hỗ trợ sinh sản, tư vấn kiểm tra sức khỏe sinh sản trước hôn nhân. Phát triển mạnh hệ thống chuyên ngành lão khoa trong các cơ sở y tế. Ưu tiên các nhóm dân số đặc thù như trẻ em, người khuyết tật, người bị di chứng chiến tranh, người cao tuổi, đồng bào dân tộc ít người, người di cư... đều thực sự bình đẳng về cơ hội tham gia, thụ hưởng thành quả phát triển…
Về nguồn lực cho công tác dân số, Ban Chấp hành Trung ương nêu rõ ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho công tác dân số, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe giáo dục, đào tạo, văn hóa, thể thao... nhằm nâng cao chất lượng dân số, đời sống mọi mặt của nhân dân, nhất là đối tượng chính sách, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo. Đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực dân số, phát triển thị trường, đa dạng hóa các gói bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm Nhà nước, bảo hiểm thương mại để các nhóm dân số đặc thù đều bình đẳng trong việc tham gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội.
Về đội ngũ cán bộ dân số, Nghị quyết 21-NQ/TW khẳng định cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, đồng thời thực hiện quản lý chuyên môn thống nhất. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cộng tác viên ở thôn, bản, tổ dân phố...
Về hợp tác quốc tế, công tác dân số trong tình hình mới cần chủ động, tích cực hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dân số. Tích cực tham gia các tổ chức, diễn đàn đa phương, song phương về dân số và phát triển. Tranh thủ sự đồng thuận, hỗ trợ về tài chính, tri thức, kinh nghiệm và kỹ thuật của các nước, các tổ chức quốc tế. Tập trung nguồn lực để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc về dân số.