Gặp lại nhà thơ Mỹ “Thiên Thu”

06-09-2009 06:28 | Văn hóa – Giải trí
google news

Tám năm nay tôi mới gặp lại nhà thơ Mỹ Joseph Duemer, giáo sư Trường đại học Clarkson. Vẫn nụ cười “thơ ngây”, ánh mắt đôi chút tinh nghịch, có điều bộ râu quai nón đã điểm bạc.

Tám năm nay tôi mới gặp lại nhà thơ Mỹ Joseph Duemer, giáo sư Trường đại học Clarkson. Vẫn nụ cười “thơ ngây”, ánh mắt đôi chút tinh nghịch, có điều bộ râu quai nón đã điểm bạc.

Cách đây tám năm, anh có giúp biên tập tiếng Anh cho tạp chí Cửa sổ Văn hoá Việt Nam, chúng tôi trìu mến gọi anh là “Thiên Thu”. Lần đó tòa soạn tổ chức sinh nhật cho một biên tập viên, Duemer thấy ở phố Hàng Mã có bức trướng vàng thêu rất đẹp, bèn mua mang về tặng. Giở ra thì là bức trướng lễ tang có ghi bốn chữ Thiên thu vĩnh biệt, mọi người được bữa cười no, riêng Duemer thì ngượng ngùng, cười xin lỗi.

Duemer lần này mang đến tặng hai tập thơ. Tập đầu là tập Magical thinking (tư duy phù phép) (NXB Đại học quốc gia Ohio, 2001) gồm 31 bài thơ của anh. Anh tâm sự: Các nhà tâm lý học định nghĩa “tư duy phù phép” là một hình thức tư duy lấy ước vọng để xây đắp cái hiện thực. Nhiều người  từ bỏ loại tư duy ấy, coi là ảo tưởng. Nhưng một số người khác lại thích tư duy kiểu “phù phép”. Chính loại tư duy ấy đã làm nên các nhà thờ, các bản giao hưởng, tạo ra trụy lạc và diệt chủng. Duemer đã chuyển “tư duy phù phép” vào thơ, thơ anh là một cuộc tranh luận cả với khoa học lẫn tôn giáo, vì hai lĩnh vực này đã tự khẳng định là những hệ thống đóng khung, những thể nghiệm cá nhân có định hướng.

“Tư duy phù phép” khiến ta nhớ đến khái niệm “tư duy người nguyên thủy” của Levy-Bruhl, nhà xã hội học Pháp: đối lập thiên hướng  thần bí  của người nguyên thủy với tính duy lý khách quan của người văn minh. Ông bị phê phán là lập luận hơi máy móc.

Dù sao Duemer, con người thế kỷ 21 đưa ra “tư duy phù phép” để thơ của mình được vượt khỏi hai chiếc lồng của khoa học và tôn giáo đang đối lập hoặc hòa hoãn với nhau, ông sử dụng những khái niệm cổ xưa và hiện đại, với giọng mỉa mai theo phong cách hậu hiện đại.

Bài thơ đầu: Tư duy phù phép: Việt Nam xuất phát từ một nhận định khoa học và triết lý: Tất cả mọi thứ đều liên quan đến nhau trong vũ trụ, do đó mà tác giả và người cha mình có liên quan đến Việt Nam. Bài Tượng Phật Việt Nam thế kỷ 18 diễu cợt cả tượng Phật lẫn người tạc tượng.

Bài thơ cuối tập Tặng Wittgenstein (triết gia “thực chứng mới” đồng thời là nhà lôgic toán học Anh) dường như tóm tắt quan niệm sống và thơ của Duemer:

Tháng ngày như ngọn cỏ rung rinh
Khi gió lướt qua , rồi là im ắng
Điều gì không nói lên được, hãy để lướt qua
Trong im lặng, hoặc để một điệu nhạc
Rung rinh lướt qua trong lòng ta...

Cuốn sách thứ hai mà Duemer mang đến cho chúng tôi là Tập san Thơ quốc tế 2001 (do trường Đại học San Diego xuất bản hàng năm). Sách dày 222 trang thì có 68 trang là thơ Mỹ và thơ dịch, 134 trang là chuyên đề về thơ Việt Nam, giới thiệu 10 nhà thơ Việt: Ý Nhi, Hoàng Hưng, Lâm Thị Mỹ  Dạ, Lý Lan, Thanh Nguyên, Lò Ngân Sủn, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly,  Dạ Thảo Phương, Nguyễn Quyến.

Tổng biên tập Tập san Moramarco giới thiệu thơ Việt Nam hiện đại qua ba chục bài dịch: “Thơ cảm xúc mạnh mẽ... đi sâu vào tâm hồn cộng đồng, thể thiện nỗi buồn mênh mông... Ấn tượng lớn của tôi là quá nhiều liên tưởng đến “đôi mắt”, hoặc ứa lệ hoặc buồn thảm... Đó là thơ có tính trực diện mạnh mẽ. Một dân tộc đã đau khổ nhiều vì nội chiến và chống ngoại xâm. Cuộc chiến chống Mỹ không là chủ đề  rõ rệt của những bài thơ  ấy, nhưng lởn vởn trong nền tảng, và thấm nhuần nội dung ấy ở sắc thái thơ. Đó là thơ của một dân tộc đã từ địa ngục trở về, sống sót và đã kiên nhẫn chịu đựng”.

Duemer nêu lên mấy đặc điểm thơ hiện đại Việt Nam như sau: Thơ nặng tình cảm, đối với phương Tây có thể là “ướt át”, nhưng cũng dễ hiểu tại sao: phản ứng lại thơ cổ điển quá nam tính và thơ tráng ca kháng chiến xóa bỏ cá nhân, thơ nữ lấy tình yêu làm chủ đề. Hai thể loại thi và ca lẫn nhau, do truyền thống văn học dân gian và phản ứng lại văn học bị tư tưởng  hoá, có khoảng cách thế hệ giữa già và trẻ nhưng không rõ ràng như ở phương Tây, vì thơ vẫn có nhiều đề tài chung như: tình yêu, thiên nhiên, địa phương, thời thơ ấu... Vẫn còn truyền thống nhà thơ “thanh cao” tách khỏi cái xấu xa của xã hội bon chen. Tinh thần cộng đồng cao vì tín ngưỡng vật linh, gắn với thiên nhiên, với tổ tiên.

Hữu Ngọc


Ý kiến của bạn