Cứ như thể tôi đang bước sang một cuộc đời khác kể từ khi cầm lại bút vẽ. Trước đó, vào năm 1973 tôi đã thi đỗ vào Trường Cao đẳng (sau đổi là Đại học Mỹ thuật Công nghiệp), học dở nửa chừng thì bỏ, đi làm việc ở nước ngoài vì hoàn cảnh gia đình. Trở về, tôi làm phóng viên và nhờ đó mà biết ông An Kiều, con trai họa sư Nam Sơn, kỹ sư điện và cũng là một tay máy có hạng (phần vì ông có những chiếc máy ảnh rất tốt mua được từ Pháp, phần nữa vì mẹ ông là người Lai Xá, đất có nghề chụp ảnh nổi tiếng). An Kiều hay đến tòa soạn của chúng tôi, chơi với mấy người bạn ở đây. Còn nhớ, năm 1999, châu Âu đổi tiền, từ Pháp về, An Kiều tặng mỗi người chúng tôi 1 đồng Euro kim loại vàng.
Vốn là người say mê hội họa, tôi rất nhớ tên và tranh của các họa sĩ thế giới và trong nước. Tôi cũng nhớ tên tuổi và những bức tranh sơn dầu của họa sĩ Nam Sơn (1890-1973). Ban đầu chỉ là nghe kể lại về chuyện tác phẩm của họa sư được thế giới nể trọng, nhưng sau tra trên mạng (www. Culture.Fr/documentation/arcade/Index/autr 41.htm) thì thấy trong 10.140 danh họa thế giới như Léonard de Vinci, Raphael, Rembrandt, Michel Ange, Cézanne, Degas, Rodin, Foujita, Monet, Picasso, Braque, Dufy... được Chính phủ Pháp mua để đưa vào Bảo tàng quốc gia, ở trang 41 có tên Nam Sơn với tác phẩm mực nho trên vải 1930 Hồng Hà Hữu ngạn mãi mại mễ xứ (Chợ gạo bên hữu ngạn Sông Hồng) được Bộ Mỹ thuật Pháp mua ngay tại Triển lãm Salon de Paris năm 1930.
Tôi cũng vẫn nhớ tới các sách giáo khoa thời xưa (của các học giả Trần Trọng Kim, Đỗ Thận) được họa sĩ Nam Sơn minh họa, như Quốc văn giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, cũng như các tạp chí thời đó viết về tranh của ông như Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp chí, các sách báo từ 1919; Rồi logo vẽ người gánh sách lên bán ở chợ Trời trên bìa An Nam tạp chí từ 1926 của Tản Đà, bạn của ông.
Các giáo sư và họa sĩ Trường Mỹ thuật Đông Dương (năm1927).
Đồng sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương?
Họa sư Nam Sơn mồ côi cha từ năm lên 4 nhưng may mắn có mẹ (cụ Nguyễn Thị Lân 1870-1951) làm nghề khâu vá, ở vậy nuôi con. Nam Sơn lại được hai nhà nho, cụ Sỹ Đức đã tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục, cụ Phạm Như Bình, dạy chữ nho và hội họa Á Đông, trước khi vào học trường Bưởi, rồi đỗ Diplome (thời đó gọi là Cử Tú Pháp Việt). Nhờ vậy, ông có thể đọc chữ nho và chữ Pháp như chữ quốc ngữ!
Năm 1920, họa sĩ Pháp Victor Tardieu (1870-1937) được Giải thưởng Đông Dương (Prix de l’Indochine, một dạng học bổng do Toàn quyền Kloboukovski đặt ra), đã sang Việt Nam để sáng tác trong một năm, được đài thọ mọi sinh hoạt, rồi lại trở về Pháp trưng bày tác phẩm... Tardieu đi thăm Hà Nội, tới Câu lạc bộ sinh viên An Nam (Club des étudiants annamites) ở số 9 phố Vọng Đức và gặp Nam Sơn đang trang trí giúp câu lạc bộ. Tardieu nhận thấy Nam Sơn là một họa sĩ trẻ có tài, hay giúp đỡ mọi người. Họ trở thành bạn hữu. Nam Sơn cũng muốn họa sĩ người Pháp này hiểu về mỹ thuật Việt Nam. Ông dẫn Tardieu đi thăm các đền chùa, đình miếu, danh lam thắng cảnh, giới thiệu lối vẽ lụa, vẽ trên giấy tuyên chỉ (thấm nước) mà ông được học từ xưa để Tardieu hiểu thêm về nền văn hóa mấy nghìn năm của dân tộc mình. Họa sĩ Nam Sơn rất kính trọng tài năng của Tardieu, nhờ sự giúp đỡ của họa sĩ người Pháp mà ông có thêm nhiều kiến thức hội họa Âu châu. Có thể coi là một “tiếp biến văn hóa“ đầu tiên tại Việt Nam giữa hai họa sĩ Á và Âu qua tình bạn vong niên này.
Tardieu được chính quyền Hà Nội lúc bấy giờ đặt sáng tác một tranh sơn dầu lớn (80m2), bức tranh sơn dầu lớn nhất Đông Nam Á, vẽ lên vải để dán lên tường đại giảng đường Trường Y khoa (phố Lê Thánh Tông - Hà Nội). V. Tardieu cũng được đặt thêm một tác phẩm sơn dầu cho cầu thang tại Thư viện Quốc gia Hà Nội...
Thú vị với hội họa Âu châu, Nam Sơn nghĩ phải đưa hội họa Âu châu vào Việt Nam, đào tạo những con người chăm chỉ và thông minh trở thành các họa sĩ có thêm những nhận thức hội họa mới! Ông ngỏ ý với Tardieu, nhưng Tardieu cho rằng sơn dầu là môn vẽ đặc biệt của người Âu châu, người Việt Nam chỉ quen vẽ lụa và trên giấy tuyên chỉ! Ngay sau đó, vào năm 1923, Nam Sơn đã vẽ Nhà nho xứ Bắc - chân dung cụ Nguyễn Sỹ Đức, làm cho V.Tardieu phải ngạc nhiên khi thấy người thanh niên Việt Nam này chưa cần phải sang Paris nhưng vẫn vẽ được sơn dầu rất đẹp, có cả hiệu ứng Clair Obscur như các danh họa thời Phục hưng!
Nam Sơn luôn nhắc với họa sư V. Tardieu về ý tưởng mở trường. Năm 1923 ông đã viết đề cương giảng dạy và như mưa dầm thấm lâu, Tardieu đã chấp nhận đề nghị của Nam Sơn rồi trao đổi với Bộ Mỹ thuật Paris, chính quyền Đông Dương và Nghị định của Toàn quyền Merlin ra đời cuối năm 1924 đã cho phép thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương.
Sau đó, theo quyết định của Toàn quyền, Nam Sơn đã cùng V. Tardieu sang Pháp theo Mission Tardieu (Công vụ Tardieu) tuyển mộ giảng viên và mua sắm họa cụ cho Trường Mỹ thuật, dự kiến khai giảng vào tháng 10/1925. Tại Paris, Nam Sơn tranh thủ tu nghiệp thêm tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Paris (Xưởng vẽ của họa sư Jean P. Laurens) và Trường Quốc gia trang trí Paris (Xưởng vẽ của danh họa Félix Aubert ), nơi họa sĩ J. Inguimberty theo học.
Tháng 10/1925, V.Tardieu bị ốm, phải vào bệnh viện. Nam Sơn và Inguimberty trở về Việt Nam và lo việc thi tuyển sinh đầu tiên, ra đề thi, trông thi, chấm thi cho 272 thí sinh toàn Đông Dương, tại một trường mỹ thuật đầu tiên của Đông Nam Á. Nam Sơn là giáo sư chuyên ngành bậc 2 - dạy hình họa và trang trí, đã cùng các giáo sư giảng dạy trong suốt 20 năm, truyền cảm xúc sáng tạo mỹ thuật cho bao thế hệ trẻ, đào tạo nên bao danh nhân hội họa cho đất nước!
Thật ngoạn mục khi nhắc đến tên tuổi lứa học trò đầu tiên của trường như: Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ Cung, Lê Phổ, Trần Văn Cẩn, Công Văn Trung, Dương Bích Liên, Nguyễn Gia Trí, Phan Kế An... Chuyện coi thi của họa sĩ Nam Sơn cũng rất đáng nhắc lại: Thí sinh Công Văn Trung gửi hồ sơ dự thi, nhưng hồ sơ lạc sang tận Pháp, khi quay lại chậm mất 1 ngày. Họa sĩ Nam Sơn cùng cộng sự của mình tổ chức cho Công Văn Trung thi riêng, nghiêm túc như thi chính, đúng quy định. Công Văn Trung đỗ thứ 5 với điểm trang trí 18/20. Các họa sĩ hồi đó kể rằng, Nam Sơn đã nói: “Làm thế thì rất mệt, nhưng nếu không làm, biết đâu bỏ lỡ cơ hội cho một tài năng...”. Và đúng như lời tiên đoán, họa sĩ Công Văn Trung sau này là một danh họa, không chỉ giỏi về đồ họa mà còn giỏi về kiến trúc và là giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Việt Nam.
Tác phẩm “Cụ Sĩ Đức - nhà nho xứ Bắc” (1923) của họa sư Nam Sơn.
Số nhà 68 Nguyễn Du Hà Nội...
Số 68 Nguyễn Du là ngôi biệt thự đẹp nhất nhì Hà Nội do KTS Nguyễn Cao Luyện thiết kế trên lô đất do họa sĩ Nam Sơn mua, có mặt tiền nhìn ra hồ Thiền Quang và một cạnh nhìn vào phố Liên Trì. Ở đó có phòng vẽ rộng 80m2 cao 8m với những tấm kính lớn (rất hiếm hồi đó), view nhìn ra không gian tạo cảm hứng sáng tạo. An Kiều là con út của cụ Nam Sơn, giờ cũng đã ở tuổi bát thập nhưng vẫn rất nhanh nhẹn. Chúng tôi hàn huyên đôi chút những kỷ niệm hồi ông còn trẻ, đẹp trai, con nhà danh giá và là sự ngưỡng mộ của biết bao giai nhân Hà thành...
Tôi tránh không hỏi đến ngôi biệt thự tuyệt đẹp giờ thuộc sở hữu nào. Tôi cũng tránh không hỏi có như người ta nói là An Kiều đã mua lại tranh của cha mình với giá cao nhưng hiện đang lưu giữ tại Pháp để tránh khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều tại Việt Nam? Ở tuổi này, có lẽ còn cần gì những điều thuộc vật chất tài sản tiền bạc nữa, mà chỉ là thuần nghệ thuật...?
Chỉ vài ngày nữa là đến giỗ cụ Nam Sơn, lúc này tôi rất nhớ bức
tranh: Chân dung mẹ tôi của cụ vẽ năm 1930 đã giành Huy chương Bạc, Salon de Paris năm 1932. Nhớ tác phẩm Cụ Sĩ Đức, nhà nho xứ Bắc (1923) - những tác phẩm đã gây chấn động trái tim tôi khiến tôi mê đắm và tìm đến với hội họa từ khi 16 tuổi...
Ngày Tết, nhìn phòng tranh của mình, với lối vẽ hiện thực của phương Tây học được từ các bậc thầy, tôi lại nhớ đến họa sư Nam Sơn.