Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái vừa tiếp nhận bệnh nhân nam, 42 tuổi trú tại huyện Yên Bình nhiễm bệnh giun rồng.
Bệnh nhân có tiền sử uống nước khe suối, ăn gỏi cá… và đã nhiều năm nay không tẩy giun, sán.
Cách ngày vào viện khoảng 1 tháng, bệnh nhân ở nhà phát hiện sưng nề từng khối ở vùng ngực, cánh tay, đùi trái, gần đây bị vỡ ra, chảy mủ kèm theo kéo ra được 2 con giun dài khoảng 7 - 8cm.
Ngày 6/6, bệnh nhân vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Yên Bái khám. Lúc này, ông đã khó thở, có khối sưng nề ở ngực, cánh tay trái và đùi trái, ấn đau tức, chảy mủ.
Siêu âm dưới da cho thấy da, tổ chức dưới da vùng thành ngực có vài ổ giảm âm rải rác, ổ lớn kích thước 35x12mm, vùng cách tay trái, mặt sau đùi trái đều có ổ giảm âm.
Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm giun rồng (Dracunculus). Các bác sĩ đã vệ sinh, gắp hết giun ra, dùng kháng sinh để điều trị bội nhiễm vết loét.
Hiện tại, bệnh nhân tỉnh táo, sức khoẻ tốt, đang được theo dõi và tiếp tục điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh.
Bệnh giun rồng là gì?
Bệnh giun rồng có tên khoa học là Dracunculus medinensis gây bệnh ở người và động vật. Bệnh lây truyền qua đường tiêu hóa và xâm nhập vào cơ thể qua nước uống hoặc thức ăn như ăn tái, sống từ các động vật thủy sinh (cá, ếch, nhái, tôm…) có chứa ấu trùng giun rồng. Mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm bệnh và tỷ lệ mắc có thể lên tới 60%.
Đây là loại giun tròn, dài nhất trong nhóm giun gây nhiễm trên người, giun cái trưởng thành có chiều rộng 1 - 2 mm, dài khoảng 70 - 120cm, mỗi giun cái có thể mang tới 3 triệu ấu trùng, giun đực ngắn 4cm, chết sau khi giao phối với giun cái.
Các biến chứng này làm hạn chế khả năng học tập, làm mất khả năng lao động, hoặc suy kiệt do diễn biến bệnh kéo dài.
Những dấu hiệu khi mắc bệnh giun rồng
Khi mới mắc bệnh, người dân thường không có triệu chứng đặc biệt. Khoảng 1 năm sau mắc, khi giun cái bắt đầu di chuyển và phát triển trong các mô dưới da, người bệnh có thể có các dấu hiệu: Sốt nhẹ, chóng mặt, nôn, buồn nôn, tiêu chảy, mẩn đỏ, tê cứng và ngứa tại chỗ giun khu trú.
Vài ngày tiếp theo, vết sưng tấy vỡ tiết ra dịch vàng, tại ổ tổn thương phát hiện một đoạn con giun màu trắng từ trong chui ra ngoài (thường là phần đầu con giun), nếu không có tác động thì con giun thường tự chui ra ngoài hoàn toàn sau 3 - 6 tuần.
Một số trường hợp người bệnh tự kéo nhưng làm đứt nửa chừng sẽ khiến ấu trùng giun và các chất độc giải phóng ra ngoài lây lan theo đường đi của giun. Điều này làm cho tình trạng viêm nhiễm trầm trọng hơn, nặng hơn có thể dẫn đến các biến chứng như: Nhiễm trùng huyết, viêm cứng khớp, áp xe do giun chết trước khi thải ra ấu trùng giun hoặc uốn ván.
Chẩn đoán xác định nếu tìm thấy giun từ ổ áp xe hoặc biểu hiện trên X - quang của một con giun đã bị vôi hóa.
Điều trị bệnh giun rồng
Khi thấy giun chui ra tại ổ sưng tấy sử dụng một que tròn rồi lăn cuộn từ từ để kéo hết giun ra ngoài (không cầm kéo mạnh hoặc chích rạch vết thương để lấy giun ra ngoài).
Điều trị bằng mebendazole hoặc thiabendazole; Dùng thêm kháng sinh, giảm đau, chống phù nề.
Ngâm vùng tổn thương vào nước ấm để kích thích giun chui ra, nước sau ngâm tổn thương rắc vôi bột, hoặc Cloramin B trước khi thải ra môi trường.
Phòng bệnh giun rồng
- Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm: ăn chín, uống sôi; sử dụng các dụng cụ trong chế biến thực phẩm chín và sống riêng biệt (thớt, dao, máy xay, bát, đĩa…) đặc biệt vệ sinh tay sau chế biến thực phẩm sống.
- Nấu chín kỹ khi sử dụng các thực phẩm thủy sinh (ếch, cá, tôm…), chôn hoặc đốt, hoặc rắc vôi bột phần ruột, đầu…sau khi chế biến hạn chế phát tán nguồn lây.
- Không cho chó, mèo ăn sống các thực phẩm thủy sinh (ếch, cá, tôm…).
Những người bệnh đang trong giai đoạn tiến triển của bệnh không tắm, rửa tại ao hồ, hoặc các nguồn nước sinh hoạt khác để tránh phát tán ấu trùng ra môi trường; làm sạch vết thương, băng bó thường xuyên vùng da bị bệnh cho đến khi lấy hết hoàn toàn giun ra khỏi cơ thể.