Đây cũng là lần đầu tiên báo cáo của Liên Hợp Quốc tập trung vào chủ đề tự chủ thân thể: Quyền đưa ra quyết định về thân thể của chính mình mà không phải lo sợ bị bạo lực hay phải để người khác quyết định thay cho mình.
Với chủ đề “Cơ thể tôi là của tôi: Mưu cầu quyền tự chủ và tự quyết”, lễ công bố Báo cáo “Tình trạng Dân số Thế giới 2021” do Bộ Nội vụ, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp cùng Quỹ dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) tổ chức.
Bà Naomi Kitahara - Trưởng đại diện UNFPA tại Việt Nam khẳng định: Tự chủ thân thể là nền tảng để con người có thể hưởng toàn bộ các quyền của mình, bao gồm quyền được chăm sóc sức khỏe và quyền được sống mà không bị bạo lực. Sự phủ nhận quyền tự chủ thân thể là hành vi vi phạm quyền của con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em gái, làm gia tăng bất bình đẳng và tiếp tay cho tình trạng bạo lực do phân biệt giới tính.
Ông Nguyễn Tường Lâm - Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Phó chủ tịch Thường trực Trung ương Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam cho biết: Chủ đề của Báo cáo Tình trạng Dân số Thế giới 2021 được đưa ra là “Cơ thể tôi là của tôi” với mong muốn công tác giáo dục giới tính được thực hiện tốt hơn nữa, lấy trọng tâm là bình đẳng giới sẽ giúp nam, nữ thanh niên phát triển toàn diện và có kiến thức, kỹ năng để tự chăm sóc, bảo vệ bản thân.
Ông Lâm đề nghị các cấp của Trung ương Đoàn, Hội cần cụ thể hóa các chính sách về chăm sóc sức khỏe cho thanh niên đã được quy định tại Luật Thanh niên 2020. Chủ động, tăng cường phối hợp với các bộ ngành, cơ quan về công tác thanh niên, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng tư vấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác thanh niên, cộng tác viên tuyên truyền, tư vấn, cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho thanh, thiếu niên ở Việt Nam.
Lễ công bố báo cáo Tình trạng Dân số thế giới 2021.
Theo UNFPA, quyền tự chủ cơ thể được đo lường thông qua 2 chỉ số của các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) là chỉ số 5.6.1 và 5.6.2. Trong số 75 quốc gia có số liệu trong báo cáo, để đo lường chỉ số SDGs 5.6.2 về sự sẵn có của hệ thống luật pháp, các văn bản quy định hoặc chính sách đảm bảo quyền tiếp cận đẩy đủ và bình đẳng cho phụ nữ và nam giới từ 15 tuổi trở lên trong việc tiếp cận thông tin và giáo dục về chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Theo đó, Việt Nam có chỉ số 5.6.2 đạt 54%/100% nhưng lại chưa có số liệu đầy đủ cho chỉ số 5.6.1 (tỷ lệ phụ nữ từ 15-49 tuổi tự đưa ra quyết định về sức khỏe sinh sản), nhưng có kế hoạch thực hiện trong những năm tới.
Những con số nhức nhối
Theo báo cáo, tại các quốc gia trên thế giới mà UNFPA ghi nhận:
- Chỉ 55% phụ nữ hoàn toàn có quyền lựa chọn về dịch vụ y tế, sử dụng biện pháp tránh thai;
- 71% quốc gia đảm bảo người dân được tiếp cận gói dịch vụ chăm sóc thai sản tổng thể;
- 75% quốc gia đảm bảo người dân được tiếp cận các biện pháp tránh thai một các hợp pháp, đầy đủ và bình đẳng;
- Chỉ 80% quốc gia có luật hỗ trợ sức khỏe tình dục và hạnh phúc cho người dân.
Bên cạnh đó, chỉ có 56% quốc gia có các văn bản pháp luật và chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho chương trình giáo dục giới tính toàn diện.
Báo cáo cũng nêu lên những cách thức khác nhau liên quan tới quyền tự chủ thân thể của phụ nữ, nam giới, trẻ em gái và trẻ em trai. Cụ thể:
- 20 quốc gia và vùng lãnh thổ có luật “cưới kẻ cưỡng hiếp”, trong đó nam giới phạm tội cưỡng hiếp có thể không bị truy tố hình sự nếu kết hôn với phụ nữ và trẻ em gái bị anh ta cưỡng hiếp.
- 43 quốc gia không có quy định pháp luật giải quyết vấn nạn hiếp dâm trong hôn nhân (bị vợ hoặc chồng cưỡng hiếp).
- Hơn 30 quốc gia hạn chế quyền đi lại của phụ nữ bên ngoài nhà ở của họ.
- Trẻ em trai và trẻ em gái khuyết tật có khả năng bị bạo lực tình dục cao gần gấp ba lần, trong đó trẻ em gái dễ gặp nguy cơ hơn.
vi phạm khác về quyền tự chủ thân thể. Ví dụ, để khởi tố một vụ hiếp dâm, hệ thống tư pháp hình sự của một số quốc gia yêu cầu nạn nhân phải trải qua một cuộc kiểm tra
trinh tiết.
Căn cứ theo phát hiện của báo cáo, giải pháp thực sự phải cân nhắc đến nhu cầu và
những gì nạn nhân đã trải qua. Ví dụ, ở Mông Cổ, người khuyết tật được đóng góp ý
kiến trực tiếp cho Chính phủ về nhu cầu sức khỏe tình dục và sinh sản của họ. Tại
Angola, thanh thiếu niên được giáo dục về cơ thể, sức khỏe và quyền của mình, nên họ
có thể tìm kiếm các dịch vụ y tế, áp dụng kế hoạch hóa gia đình, từ chối quan hệ tình
dục và gửi đơn kiến nghị cho hệ thống tư pháp khi bị bạo lực tình dục.