Flamenco là đứa con đẻ của bóng tối, tiếng hát này cất lên buổi khuya khoắt khi màn đêm buông xuống, vào lúc mà con người cảm thấy đơn côi nhất.
Mở đầu, nhạc sĩ Tây Ban Nha cầm rắc từng nốt nhạc như tìm kiếm một người bạn tri âm. Ở Andalucia (Tây Ban Nha) người ta gọi đó là khúc nhạc mời gọi lời ca. Có lúc bàn tay xòe của nhạc sĩ vỗ vào phím đàn, động tác này là một trong những nét đặc thù của flamenco. Trong đám người vây quanh nhạc sĩ, ca sĩ nhập cuộc bằng một tiếng kêu ai oán hay một lời than vãn dài xuất phát từ tim gan mình, bởi vậy, flamenco còn được gọi là Cante Jondo, nghĩa là điệu hát sâu thẳm, bắt nguồn từ đáy lòng ca sĩ.
Vũ khúc flamenco đã kế thừa di sản dân gian của miền Andalucia, Tây Ban Nha (photo.net). |
Khi ca sĩ cất tiếng, những người Tzigan trong cử tọa vỗ tay bắt nhịp, hô theo những lời động viên khích lệ. Lời ca thường là những bài thơ nhỏ, ngắn, giản dị, không cầu kỳ. Ca sĩ hát về nỗi đau của người tha hương, nỗi nhớ mẹ, kỷ niệm người yêu để lại hay về nỗi khổ của người bị phụ tình. Nếu hay, nếu được hưởng ứng, ca sĩ có thể hát thâu đêm suốt sáng. Ca sĩ flamenco khi tìm thấy niềm cảm hứng, nhắm mắt say sưa, đôi tay duỗi ra như người bị cuốn hút vào cơn mê. Trong nhạc flamenco, họ gọi đó là Duende. Từ ngữ này chỉ định phút nhập thần, niềm hạnh phúc và kiêu hãnh của ca sĩ. Phải có phút cao điểm như thế, ca sĩ mới truyền đến cử tọa tâm trạng của mình và mới lôi cuốn mọi người vào giấc mơ tập thể.
Người ta kể rằng, các ca sĩ lớn, các nghệ sĩ đích thực của flamenco, vào phút Duende, mê hoặc mọi người đến nỗi trong cử tọa người thì lên cơn sốt nhập đồng cào xé mình, người thì đập đầu vào vách tường toan tự vẫn. Cũng chính vì flamenco đòi hỏi ở ca sĩ sự chịu đựng phi thường và sức bền bỉ cho đến sáng mà tuyệt đại đa số ca sĩ flamenco thuộc phái nam. Hơn nữa, theo thẩm mỹ người Tzigan, giọng ca flamenco không được thanh tao, êm ái, trong suốt, trái lại hát flamenco ắt phải đòi hỏi một giọng khàn đục gân guốc, u uất, có như vậy mới thể hiện nổi những đổ vỡ trong tâm hồn Tzigan. |
Flamenco là đứa con hoang của miền Andalucia. Điệu hát này xuất hiện vào thế kỷ 18 trong các gia đình Tzigan định cư ở miền đất Tây Ban Nha. Vào lúc đó, người ta chỉ bắt gặp tiếng hát flamenco trong các buổi họp mặt gia đình, các cuộc tiếp xúc thân mật giữa người Tzigan với nhau. Dần dà, flamenco được các nông dân Andalucia ngưỡng mộ hát theo, trong khi giới thượng lưu vẫn xem thường flamenco là tiếng kêu đường của phường khố rách áo ôm. Thật vậy, người Tzigan tuy được phép định cư vào lúc ấy ở Andalucia, nhưng vẫn bị xem là cặn bã của xã hội. Họ bị trù dập và áp bức, ngay cả ngôn ngữ Calu của họ, thời đó cũng bị nghiêm cấm. Thân phận nô lệ dường như đã là định mệnh của người Tzigan. Tzigan là ai, từ đâu họ đến Andalucia. Nói đến Tzigan ai cũng liên tưởng đến những điều bí ẩn mà ngày nay người ta không thể giải mã được hết. Tzigan là dân tộc du mục không quê hương, không quá khứ. Đó là dân tộc du mục duy nhất không săn bắn, không chăn nuôi để tồn tại.
Với nước da ngăm đen, cách ăn mặc, cách vấn tóc của phụ nữ Tzigan, ngôn ngữ của họ, tất cả các đặc điểm đều chứng tỏ Tzigan xuất phát từ Ấn Độ. Sử sách của Iran vào thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên bắt đầu ghi chép về một dân tộc chuyên đàn hát, đã được Quốc vương Ấn Độ phái sang đất nước ngàn lẻ một đêm. Vào thế kỷ 14, sự hiện diện của dân tộc Tzigan đã được mô tả đầy đủ trong lịch sử các nước Trung Âu. Thế kỷ 15, hành trình của người Tzigan đưa họ đến cực nam của châu Âu, vùng đất Tây Ban Nha gần gũi nhất với Bắc Phi, đó là Andalucia.
Nét tiêu biểu của người Tzigan là họ sống cách biệt, vì đi đến đâu họ cũng bị ruồng bỏ, săn đuổi. Từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 20, khi Đức Quốc xã đưa họ vào các lò thiêu, đó là 600 năm người Tzigan bị hành hạ và tiêu diệt. Khắp nơi tại Pháp cũng như tại Đức, Hà Lan, Thụy Sĩ, họ bị xem là thành phần bất hảo. Thời ấy các cuộc săn lùng người Tzigan được tổ chức thường xuyên với các món tiền thưởng cho ai bắt sống được người Tzigan. Bị cấm đi, cấm lưu hành, cấm đến, cấm được giúp đỡ, họ bị vu cáo là mẹ mìn bắt trẻ con, là kẻ ngoại đạo, là phù thủy được ma đưa lối quỷ dẫn đường, họ chỉ được quyền làm nô lệ. Đạo luật cuối cùng cho phép bắt Tzigan làm nô lệ ở châu Âu chỉ bị xóa bỏ vào giữa thế kỷ 19 mà thôi. Riêng ở Tây Ban Nha, khi người Tzigan đến đây vào thế kỷ 15, luật pháp đình ghi rõ, theo pháp lệnh, mỗi người Tzigan phải có chủ nhân và không được quyền tiếp tục viễn du. Nếu vi phạm, bị đánh 100 roi, vi phạm tiếp, bị cắt tai và bị xích trong 60 ngày liên tiếp. Vi phạm tiếp nữa, bị bắt làm nô lệ. Từ đó cho đến đầu thế kỷ 20, hàng lọat các đạo luật khắt khe của Tây Ban Nha đều hướng về cùng một mục tiêu : Hoặc lưu đày người Tzigan ra khỏi nước hoặc đồng hóa dân tộc này.
Chuscales và ca sĩ flamenco Vicente Griego (chuscales.com). |
Xét trên bình diện lịch sử âm nhạc, Flamenco đã kế thừa di sản ca nhạc dân gian của miền Andalucia. Nhưng người Tzigan đã biến đổi hoàn toàn các điệu hát truyền thống ở đây với phong cách bi thảm và tiết tấu phong phú, cách luyến láy não nùng đến từ châu Á. Lối hát cũ của Andalucia đã được thay đổi tận gốc, khi người Tzigan không còn cất tiếng để chiều lòng người khác tộc. Trong màn đêm tĩnh mịch, như thể họ vẫn còn lén lút trốn tránh, họ tìm về với bản sắc của mình để thổ lộ nỗi bất bình triền miên, hòng hóa giải bi kịch đã kéo dài một ngàn năm.
Bảo Thạch (Theo RFI, Flamenco)