Tiếp theo số 192
Điều trị sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai
Như trên đã nêu, phụ nữ mang thai bị sốt rét ác tính có thể dẫn đến tình trạng sẩy thai, đẻ non, thai chết lưu và tử vong. Vì vậy cần phải điều trị tích cực diệt ký sinh trùng sốt rét gây bệnh kết hợp với việc điều trị triệu chứng, biến chứng. Trong điều trị, chú ý điều trị đặc hiệu bằng thuốc sốt rét và điều trị hỗ trợ có hiệu quả theo quy định của hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét của Bộ Y tế.
Quinine dihydrochloride và artesunat tiêm phải có tại cơ sở y tế để xử trí khi cần thiết (ảnh minh họa).
Điều trị đặc hiệu: Cần sử dụng các loại thuốc có hiệu lực cao bằng thuốc tiêm, thuốc viên tùy theo thời gian phụ nữ mang thai của thai kỳ.
Nếu phụ nữ bị sốt rét ác tính mang thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ, sử dụng thuốc quinine dihydrochloride tiêm với liều lượng 30mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày, dùng trong 7 ngày; kết hợp với clindamycine uống với liều lượng 15mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày, cũng dùng trong 7 ngày. Thuốc quinine dihydrochloride ống 500mg được pha trong dung dịch natri chlorure 0,9% hoặc glucose 5% để truyền tĩnh mạch; trước đó người bệnh chưa được điều trị bằng thuốc quinine ở tuyến dưới thì truyền tĩnh mạch với liều lượng 20mg/kg trọng lượng cơ thể ở 8 giờ đầu, sau đó dùng 10mg/kg trọng lượng cơ thể cứ mỗi 8 giờ một lần cho đến khi người bệnh uống được thì chuyển sang dùng quinine sulfate với liều 30mg/kg trọng lượng cơ thể chia làm 3 lần trong ngày cho đủ liều điều trị 7 ngày. Chú ý khi người bệnh uống được phải điều trị kết hợp thêm thuốc clindamycine viên với liều lượng 15mg/kg trọng lượng cơ thể/24 giờ chia làm 2 lần, cũng dùng trong 7 ngày cho đủ liều; viên thuốc clindamycine thường được sản xuất dưới hai loại hàm lượng là 150mg và 300mg.
Nếu phụ nữ bị sốt rét ác tính mang thai trên 3 tháng của thai kỳ, sử dụng thuốc artesunat tiêm như những trường hợp bệnh nhân khác bị sốt rét ác tính. Thuốc artesunat tiêm có hàm lượng 60mg dạng bột được đóng trong lọ kèm theo ống 1ml natri bicarbonate 5% dùng làm dung môi hòa tan. Pha 1ml natri bicarbonate 5% vào lọ có chứa 60mg bột artesunat, lắc thật kỹ cho bột artesunat tan hoàn toàn để trở thành dung dịch trong suốt; sau đó pha thêm 5ml natri chlorure 0,9% để tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt nếu không tiêm được tĩnh mạch. Khi bệnh nhân đã tỉnh có thể uống được, chuyển sang uống thuốc dihydroartemisinin-piperaquin có tên biệt dược là arterakine, CV artecan liền trong 3 ngày tiếp theo. Artesunat tiêm sử dụng liều lượng 2,4mg/kg trọng lượng cơ thể trong giờ đầu; tiêm nhắc lại 1,2mg/kg trọng lượng cơ thể vào giờ thứ 12 của ngày đầu. Sau đó mỗi ngày tiêm một liều 1,2mg/kg trọng lượng cơ thể cho đến khi bệnh nhân tỉnh, có thể uống được thì chuyển sang uống thuốc dihydroartemisinin-piperaquin với liều lượng 2 viên trong giờ đầu, 2 viên sau 8 giờ; ngày thứ 2 và ngày thứ 3 uống mỗi ngày 2 viên cho đủ liều 3 ngày. Vấn đề cần lưu ý là không được dùng artesunat tiêm cho phụ nữ mang thai bị sốt rét ác tính trong 3 tháng đầu của thai kỳ trừ trường hợp tại cơ sở y tế không có thuốc quinine tiêm thì phải sử dụng. Trường hợp không tiêm artesunat được bằng đường tĩnh mạch, có thể tiêm bắp thịt bằng cách chỉ cần pha bột thuốc với 1ml natri bicarbonat 5%, lắc kỹ cho bột artesunat tan hoàn toàn rồi tiêm bắp, không cần pha thêm 5ml natri chlorure 0,9%.
Điều trị hỗ trợ: Được thực hiện như các trường hợp điều trị sốt rét ác tính cho những bệnh nhân khác như: hạ sốt, cắt cơn co giật; chống sốc, suy hô hấp, thiếu máu do huyết tán hoặc xuất huyết, hạ đường huyết, tiểu huyết cầu tố; điều chỉnh rối loạn nước, chất điện giải, kiềm toan và chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy vậy cần chú ý việc xử trí có hiệu quả biến chứng hạ đường huyết, thiếu máu; điều chỉnh tình trạng mất nước, rối loạn chất điện giải và kiềm toan. Một điều phải lưu ý là phụ nữ có thai mắc sốt rét ác tính thường hay bị hạ đường huyết nhất là khi điều trị bằng thuốc quinine, vì vậy nên truyền thêm dung dịch glucose 10% và theo chỉ số glucose của máu.
Khuyến cáo
Hiện nay, bệnh sốt rét tại nước ta đang có nguy cơ quay trở lại và bùng phát ở một số địa phương, kèm theo đó là tình trạng ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum gây sốt rét ác tính đã kháng lại với thuốc sốt rét đang được sử dụng làm khó khăn cho việc xử trí điều trị sốt rét có hiệu quả và có thể dẫn đến tử vong. Nên lưu ý ở các vùng sốt rét lưu hành, khi phụ nữ mang thai mắc sốt rét thì tỷ lệ chuyển đổi thành sốt rét ác tính thường cao hơn những phụ nữ mắc sốt rét không mang thai. Vì vậy, cần cảnh báo sớm vấn đề này để chủ động đề phòng các trường hợp tử vong do sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai kể cả thai nhi trước khi quá muộn.
TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH