Là một di tích lịch sử văn hóa đã được công nhận nhưng Hải Vân quan lại có một “số phận” hẩm hiu, nhất là kể từ khi khai thông hầm đèo Hải Vân. Sự hoang vắng giữa chốn sương mờ ảo, sự ứng xử vô cảm của con người và sự bào mòn của thiên nhiên đã làm Hải Vân quan bị biến dạng. Di tích này đang bị lãng quên…
Dấu xưa huy hoàng
Sử sách chép rằng, năm Bính Tuất (1826), vua Minh Mạng thứ 7 đã cho xây đắp cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân trong cảnh núi đèo hoang vu của những “chúa sơn lâm” còn ngự trị. Trước đó, khi thân chinh đi đánh Chiêm Thành (1470), lúc đi ngang qua đèo Hải Vân, vua Lê Thánh Tông thấy cảnh đẹp và địa hình núi non hiểm trở nên đã đặt cho nơi đây là “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Về sau, trải qua nhiều đời vua, chúa của triều Nguyễn và thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hải Vân quan vẫn luôn được xem trọng với vị trí chiến lược về chính trị, an ninh và quốc phòng. Dấu tích xưa của Hải Vân quan vẫn được lưu lại trong các thư tịch cổ nước nhà. Biết bao tấm gương của tổ tiên người Việt đã băng rừng, trèo đèo, lội suối với bao hiểm nguy để dựng xây nên một vùng đất phương Nam màu mỡ và trù phú như ngày hôm nay.
Trong Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn có đoạn: “Phía trước, phía sau đều đặt một cửa quan (ngạch trước viết ba chữ “Hải Vân quan”, ngạch sau viết 6 chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Cửa trước cao và dài đều 15 thước, ngang 17 thước 5 tấc, cửa sau cao 15 thước dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc, cửa tò vò đều cao 10 thước 8 tấc, ngang 8 thước 1 tấc. Phía tả hữu cửa quan xếp đá làm tường, trước sau tiếp nhau. Chuẩn định từ Hải Vân trở ra Bắc thuộc quản hạt Thừa Thiên, từ ngoài Hải Vân trở vào Nam thuộc quảng hạt Quảng Nam”. Như vậy, Hải Vân quan vừa trở thành trạm trung chuyển, điểm dừng chân trên con đường thiên lý Bắc-Nam; là đất yết hầu, là vùng cửa ngõ của nước Đại Nam khi ấy và đồng thời trở thành cột mốc ranh giới phân định giữa Thừa Thiên Huế và TP. Đà Nẵng bây giờ.
Không những thế, Hải Vân quan còn nằm trên một địa thế khá lý tưởng. Địa hình cheo leo, khúc khuỷu (cao 496m). Khí hậu mát mẻ quanh năm. Từ trên Hải Vân quan, nhìn về hai phía, du khách sẽ chiêm ngưỡng cảnh sắc trời mây kỳ vĩ của thiên nhiên ban tặng với những chứng tích của nhiều thời kỳ lịch sử huy hoàng, là niềm tự hào về quá khứ vàng son của khúc ca khải hoàn “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”.
Cổng Hải Vân quan bị cỏ dại, dây leo xâm lấn. |
Chạnh lòng trước “số phận”!
Dấu xưa hoành tráng và huy hoàng là vậy, con đường thiên lý Bắc Nam quanh co, trắc trở là thế nhưng cũng có lúc bị con người đối xử lạnh lùng. Kể từ khi hầm đèo Hải Vân, công trình thế kỷ XXI, được thông xe (năm 2000), Hải Vân quan càng vắng vẻ người qua lại, nếu có thì cũng chỉ là sự hồi tưởng về một thời lửa đạn của những người lính năm xưa, của những vị khách “bất đắc dĩ”… Hơn 10 năm trôi qua, mặc dù đã được xếp hạng là một di tích lịch sử văn hóa cấp thành phố, song ngày ấy và bây giờ vẫn như cũ, không được trùng tu, tôn tạo dù chỉ là một viên gạch, thanh đà chống đỡ.
Rất tình cờ, chúng tôi thực hiện chuyến du lịch bằng xe máy về với Hải Vân quan. Đường lên đèo Hải Vân khá vắng vẻ, chủ yếu là xe gắn máy của những nam thanh nữ tú muốn thử thách cùng núi non, thỉnh thoảng cũng có vài chiếc xe ôtô loại 4-6 chỗ ngồi. Vừa chạm chân xuống đất để đỗ xe, biết bao tiếng mời mọc mua hàng bát nháo. Tuy là khúc cua nguy hiểm của đỉnh đèo nhưng khách du lịch đỗ xe bất chấp luật lệ. Men theo con đường nhỏ dốc và lởm chởm đá để lên cổng Hải Vân quan, cổng vòm cao bám đầy rêu xanh mang dấu ấn thời gian. Cổng Hải Vân giờ chẳng còn người qua lại nhiều, cũng chẳng còn người đứng gác hay bảo vệ. Quang cảnh đầu tiên đập vào mắt chúng tôi là nham nhở dây leo, cỏ cây hoang dại xen lẫn trong những hầm hố, bám níu trên cổng thành. Chưa hết, dấu tích thời gian của sáu chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” vang danh một thời cũng dần mờ theo năm tháng.
Lên đến Hải Vân quan, thoả sức nhìn cảnh trời mây, chúng tôi còn được nhìn thấy nhiều lô cốt sụp bể, nắp nằm nghiêng ngả, không còn nguyên vẹn. Gần các lô cốt này là những lỗ châu mai bám nhiều cỏ lau, cây hoang dại. Trông xa, khó có ai có thể đoán ra đó là lỗ châu mai. Lân la cùng đoàn cựu chiến binh viếng thăm Hải Vân quan, chúng tôi được biết thêm về gốc tích. Một cựu chiến binh đến từ Thái Bình cho biết, những lô cốt này được người Pháp xây dựng vì mục đích quân sự với nhiều hình dạng, quay về các hướng khác nhau kiểm soát tuyến đường huyết mạch nối liền đất nước, quốc lộ 1A, nhưng giờ chỉ còn như vậy! Nằm liền kề là một ngôi nhà, vốn xưa kia là trụ sở của những người trông coi Hải Vân quan, giờ cũng bị bỏ hoang, không ai đến ở.
Rời Hải Vân quan, chúng tôi cảm thấy chạnh lòng trước sự hoang phế của “Thiên hạ đệ nhất hùng quan”. Nhìn cổng Hải Vân quan cùng với những lô cốt, lỗ châu mai đang “gồng mình” để chống chọi với sức tàn phá của thiên nhiên chợt thấy… xót xa. Hải Vân quan đang rất tha thiết nhận được sự đối xử bình đẳng như bao di tích khác để Hải Vân quan vẫn mãi mãi là niềm kiêu hãnh của những người đi mở cõi.
Dương Văn Út