Gân bánh chè nằm ở vị trí trước gối, dưới xương bánh chè, có chức năng làm duỗi gối. Gân bánh chè có thể tổn thương hoàn toàn hoặc không hoàn toàn. Đây là một loại tổn thương không hiếm gặp trong đời sống hàng ngày.
Vị trí giải phẫu gân bánh chè (nhìn phía trước) và tổn thương giải phẫu bệnh.
Tổn thương không hoàn toàn: Gân bánh chè được tạo nên bởi nhiều thớ sợi hợp lại, giống như dây cáp được tạo bởi nhiều sợi cáp. Tổn thương không hoàn toàn gân bánh chè là hiện tượng đứt ngầm, hay đứt một số thớ sợi nhất định trong gân, những thớ còn lại vẫn giữ được vai trò duỗi gối nhưng yếu hơn. Trong trường hợp này, gối có thể duỗi được nhưng yếu và duỗi không hết tầm.
Tổn thương hoàn toàn là đứt hoàn toàn các thớ của gân bánh chè. Gân bánh chè thường đứt tại vị trí bám vào cực dưới xương bánh chè, có thể bong một phần chỗ bám. Khi đứt hoàn toàn, gân bánh chè co ngắn lại về hai phía, bệnh nhân mất hoàn toàn khả năng duỗi gối. Nếu đứt gân bánh chè do bệnh lý (viêm gân), vị trí đứt thường là 1/3 giữa của gân.
Vì sao đứt gân bánh chè?
Do chấn thương: Để đứt gân bánh chè phải có một lực chấn thương rất lớn. Chẳng hạn, một lực va chạm mạnh, trực tiếp vào trước gối do ngã hoặc bị đánh. Vết chém trực tiếp vào trước gối là nguyên nhân không hiếm gặp. Gân bánh chè có thể bị tổn thương khi nhảy cao, chân tiếp đất trong tư thế gối gấp, bàn chân “duỗi” (gấp về phía gan chân).
Do bệnh lý: Khi có bệnh lý, gân bánh chè mất sức bền, rất dễ bị tổn thương. Khi đứt gân trên nền bệnh lý, gân thường đứt ở vị trí 1/3 giữa. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:
Viêm gân bánh chè. Viêm gân bánh chè thường thấy ở những người liên quan đến các động tác lặp đi lặp lại, thường xuyên như chạy, nhảy (vận động viên). Tiêm corticoid vào trực tiếp hoặc xung quanh gân bánh chè là một nguyên nhân làm yếu và tăng nguy cơ đứt gân bánh chè.
Bệnh lý mãn tính. Một số bệnh lý mãn tính dẫn đến tình trạng cấp máu kém cũng làm cho gân bánh chè bị yếu và dễ tổn thương như suy thận mạn, viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường, bệnh chuyển hóa, nhiễm trùng, một số bệnh lý bắt buộc sử dụng corticoid dài ngày.
Nguyên nhân phẫu thuật: Một số phẫu thuật xung quanh vùng gối trước đó như thay khớp gối, tái tạo dây chằng chéo trước bằng gân bánh chè tự thân đều làm tăng nguy cơ đứt gân bánh chè.
Triệu chứng
Ngay sau chấn thương, bệnh nhân cảm thấy đau và gối từ từ sưng lên, đồng thời xuất hiện các triệu chứng kèm theo: Sờ thấy vùng lõm (mất liên tục) ngay cực dưới xương bánh chè (nơi vị trí gân bánh chè bị rách); bầm tím; chuột rút (co cơ); xương bánh chè lên cao hơn bình thường; không thể duỗi hết gối; bước đi khó khăn.
Hình ảnh đứt gân bánh chè trên phim MRI (phải) và dấu hiệu mất liên tục trên lâm sàng (trái)
Điều trị đứt gân bánh chè
Khi được chẩn đoán là đứt gân bánh chè, người bệnh cần đến khám bác sĩ chuyên khoa chấn thương chỉnh hình để được tư vấn và điều trị. Chỉ định phương pháp điều trị phụ thuộc vào: Mức độ và tính chất của tổn thương; mức độ hoạt động của người bệnh; tuổi tác của người bệnh.
Điều trị bảo tồn (không phẫu thuật): Chỉ định cho trường hợp rách nhỏ, một phần gân bánh chè. Điều trị bảo tồn phần lớn mang lại kết quả tốt.
Bất động: Bất động bằng nẹp tư thế duỗi gối trong thời gian 3-6 tuần. Khi đi lại dùng hai nạng trợ đỡ, tránh tỳ toàn bộ trọng lượng cơ thể lên chân tổn thương.
Tập luyện: Thực hiện một số bài tập để tăng sức khỏe của cơ, lấy lại biên độ vận động của khớp gối. Trong thời gian mang nẹp, tập gồng cơ bằng cách nâng chân lên khỏi mặt giường trong tư thế duỗi thẳng gối. Khi tháo nẹp (gân đã liền kỳ đầu), tập gấp duỗi gối từ từ tăng dần biên độ. Có thể chơi thể thao trở lại sau 6 tháng.
Điều trị bằng phẫu thuật: Phần lớn những tổn thương gân bánh chè phải điều trị bằng phẫu thuật thì mới lấy lại được chức năng bình thường của gối. Điều trị bằng phẫu thuật chỉ định cho rách lớn hoặc đứt hoàn toàn gân bánh chè. Phẫu thuật càng sớm kết quả càng tốt. Nếu để muộn, khi tổ chức xơ đã hình thành, đồng thời đầu gân đã co ngắn sẽ ngăn cản sự liền gân, khi đó phẫu thuật khâu lại gân thường mang lại kết quả kém, bắt buộc phải chuyển gân thay thế. Có nhiều kỹ thuật chuyển gân có thể được áp dụng, tuy nhiên phổ biến nhất là sử dụng gân cơ bán gân và gân cơ thon tự thân.
Chế độ vận động sau mổ
Ngay sau mổ dùng thuốc giảm đau, chườm đá. Cắt chỉ khâu da sau 2 tuần. Bất động bằng ống bột trong thời gian 3-6 tuần, tư thế duỗi gối. Đi lại có nạng, tỳ một phần chân mổ (50%) từ tuần thứ 2 đến tuần thứ 4. Sau 4-6 tuần tỳ hoàn toàn trọng lượng cơ thể. Sau khi tháo bột, tập gấp duỗi gối từ từ tăng dần để lấy lại biên độ khớp gối. Một số trường hợp mũi khâu chắc, bệnh nhân có thể tập vận động gối ngay sau mổ. Thông thường sau 6 tháng bệnh nhân mới có thể trở lại mọi hoạt động bình thường, có trường hợp phải mất 12 tháng.