(SKDS) - Vượt cầu sông Bằng, đi khỏi thị xã khá xa, ôtô đưa chúng tôi rẽ về cánh đồng Cao Bình mông mênh phủ một màu xanh, điểm thêm những cây hoa rừng bóc mạ đỏ đẹp như tấm thổ cẩm. Thị trấn Nước Hai sầm uất, vẫn còn dấu thành quách cách gần một trăm năm của thời Mạc Kính Cung đến Mạc Kính Vũ (1592 - 1688) khi nhà Mạc chạy về Cao Bằng.
Phố Sóc Giang, đồn điền biên giới ẩn hiện sau từng lược núi rừng sừng sững, một vị trí sung yếu bao thời “nơi quang bà bách nhị do thiên thiết” (chỗ sung yếu, hai người chống lại trăm, do trời đặt ra). Đường này là ngã ba Đông Chương, ngược lại là về bản Nà Toàn - quê hương của đồng chí Hoàng Đình Giong tức Vũ Đức, Chỉ huy trưởng Khu 9 Nam Bộ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Kia là lối đi các bản: Nà Mạ, Nà Kéo, Bản Hoong, Bản Hoàng... Đền thờ nhà Lê trước mặt ở dốc chùa Đống Lân, chỗ rừng cây cổ thụ ngả bóng mát suốt ngày. Sau đền vua Lê là khu Lam Sơn, Hào Lịch - nơi cơ sở cách mạng vững vàng trong những năm 30: Đến gần Bản Hoàng là đền thờ cha con Nùng Tôn Phúc, Nùng Trí Cao - anh hùng dân tộc có công đánh quân xâm lược Tống từ đầu thế kỷ thứ XI.
***
![]() Bác Hồ ở hang Pắc Bó - Chiến khu Việt Bắc. |
Chào Kim Đồng! Chúng tôi đi tiếp con đường về Pắc Bó. Bản Nà Mạ - làm tiền trạm mở cửa đón khách mười phương trời đến thăm khu di tích cách mạng. Ngày trước mỗi khi giặc Pháp, giặc Nhật lùng sục qua làng, nhân dân vùng này đưa khăn mặt treo ngoài sàn làm mật hiệu cho “đài quan sát” trên đỉnh núi Mác biết để báo tin cho “đại bản doanh” Pắc Bó!
Chúng tôi ghé thăm nhà mẹ Kim Đồng. Bà mẹ anh hùng đã hiến dâng Kim Đồng cho Tổ quốc cũng bình thường như mọi bà mẹ Việt Nam. Cụ rất mừng khi biết có khách xa về thăm. Người cháu gái của Kim Đồng pha nước tiếp chuyện chúng tôi. Chị kể cho nghe về bản làng mới, đẹp từ khi cách mạng về. Đồng chí Lê Duẩn, ngày về thăm Pắc Bó có đến chào mẹ Kim Đồng khi cụ còn sống và tặng mẹ chiếc quạt. Cả nhà, cả bản gọi chiếc quạt ấy là của Đảng cho.
Ngoài trời mưa, trận mưa núi không to nhưng nghe chừng dữ dội. Nước chảy ào ào dưới suối. Dòng suối quay nhanh như guồng nước đạp chày giã gạo liên hồi phía đầu bản.
Ngày nay, vùng huyện Hồng Phong (Hà Quảng) không chỉ có guồng lấy nước và cối giã gạo giã bằng nước suối, nước đã quay các tuýt bin trên nhà máy thủy điện bên đồi. Điện đã đưa về Pắc Bó, thắp sáng cả một vùng núi bao la.
Bây giờ, từ thị xã Cao Bằng về thăm Pắc Bó, ôtô đi thẳng đến cột kilomet 52. Năm 1961, tức là 51 năm về trước, Bác ở hang này, từ Đôn Chương vào chỉ có đường đi bộ. Ngày ấy, Bác trở về Pắc Bó, Bác cũng còn đi một con đường ngựa. Dân bản hôm ấy đổ ra đón Bác, đón đồng chí Tố Hữu, đồng chí Nguyễn Khai và các đồng chí đi cùng. Những màu áo chàm còn thơm mới, những chiếc áo hoa nhiều hoa đỏ và những giọt nước mắt đầy xúc động:
- Sin hỏ lai lố Bác á (Bác ơi, vất vả quá!).
- Tôi về thăm nhà, sao bà con lại ra đón?
Bác rưng rưng nước mắt, các cụ các mẹ cảm động cũng khóc òa. Thanh niên trai gái cả mấy bản gần xa hôm ấy đều về để biểu diễn pile, múa khèn chào Bác. Bác hỏi thăm từng người, từng gia đình và công việc làm ăn trong hợp tác xã. Bác nói:
- Cao Bằng, ít nhất phải cao, bằng nơi cao nhất. Hay Cao Bằng lại cao không nơi nào bằng.
Đại Vinh - tên Bác đặt, là anh cả của bảy anh chị em con cụ Dương Văn Đình lớn hơn Bác mấy tuổi, Bác gọi là anh. Hai cụ ngày xưa cứ ngồi bút đàm với nhau suốt buổi. Bác viết chữ nho giỏi lắm. Bác nói với các cụ già trong bản:
- “Tôi già, các bác cũng già cả. Tôi làm cách mạng được, các bác có nên làm cách mạng không?”.
- Bác tốt bụng quá đi thôi! (Đồng chí Đại Vinh nói tiếng phổ thông chưa nhiều, có đoạn còn chen tiếng Nùng. Đồng chí Vĩnh Xuân dịch lại cho chúng tôi nghe hồi ấy). Việc gì Bác cũng làm cả. Ai Bác cũng thương, cũng giúp. Bác tắm con trẻ, chữa ghẻ, chốc cho các cháu. Bác là “Ông Ké có thuốc tiên”. Bác đến là trẻ con xúm lại đông. Cháu nào Bác cũng cho quà và trò chuyện với các bạn nhỏ. Quà của Bác ngày Tết là một phong bao Bác giấu truyền đơn. Những lời kêu gọi cứu nước, đánh đuổi Nhật sắc nhọn như cọc Bạch Đằng và lan rộng khắp đó đây. Những bức thư ký tên Nguyễn Ái Quốc hừng hực lửa đấu tranh kêu gọi đồng bào:
“Hỡi các chiến sĩ cách mạng, giờ giải phóng đã đến! Hãy phất cao cờ độc lập lãnh đạo toàn dân đánh tan quân thù chung. Tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc đang vang dội bên tai của các đồng chí! Máu nóng các bậc anh hùng đang sôi sục trong lòng các đồng chí!”...
Những lời hịch của Bác vang vọng khắp trong Nam, ngoài Bắc trùm lên cả non sông, đến hôm nay như muốn còn giục giã chúng ta.
Muốn vào hang Cốc Bó phải men theo dòng suối Lênin qua những lớp đá và rừng cây xanh um. Nơi Bác ngồi làm việc là một phiến đá không lớn lắm. Hang Cốc Bó rộng, dài không quá một toa tàu hỏa, từ chân núi trèo lên miệng hang cao hơn 50m. Chỗ Bác nằm bên phải, chỗ các đồng chí bảo vệ Bác nằm bên trái. Tượng Các Mác do Bác khắc bằng những nhũ đá nhấp nhô giống hình người. Bác tô điểm thêm một chú vượn dưới chân Các Mác.
|
Bác Hồ thăm lại bà con Pắc Bó, Cao Bằng . Ảnh: T.L |
Bác về Pắc Bó cách đây mấy chục năm. Chỉ hai tay trắng mà xây dựng một sơn hà! Bác làm rạng rỡ lịch sử cha ông từ thuở vua Hùng dựng nước đến ngày nay. Giờ đây, chúng ta về Pắc Bó, đường đã mở rộng thênh thang. “Và kể từ ấy đến nay, trên con đường từ thị xã Cao Bằng về Hà Quảng, nhân dân đã xây dựng bao nhiêu cánh đồng 5-7 tấn Bản Ngần đã hơn 8 tấn, hợp tác Tiên Hoàng dẫn đầu về trồng cây. Đường về Pắc Bó từ làng Đỏ Hồng Việt lên từng Trường Hà sẽ được trồng cây có hoa đỏ và với tinh thần Bác luôn bên cạnh, những chi bộ, đảng bộ 4 tốt cũng nảy nở trên khắp địa phương này.
Đoàn người về Pắc Bó mỗi ngày một đông. Những người “hành hương” về Pắc Bó tất cả đều một lòng kính yêu Bác. Vì Bác là con người Việt Nam đẹp nhất. Tư tưởng của Người là tư tưởng của thời đại.
Về Pắc Bó để học tập cuộc sống, tinh thần đấu tranh không mệt mỏi cho tự do của một chiến sĩ vĩ đại.
Nơi đó Bác đã gieo mầm sống và thắp lên ngọn lửa soi sáng cái hang tối rộng thênh thang là xã hội Việt Nam đường thời, nô lệ và tối tăm, dẫn đường cho chúng ta vượt qua muôn ngàn hy sinh gian khổ tiến tới quãng trời độc lập và tự do.
Nhà văn Đoàn Minh Tuấn