Nói lời sau cùng tại tòa, Dương Chí Dũng mong mỏi, nếu trong tình huống tòa buộc phải tuyên, không làm thế nào được thì cũng xin cho bị cáo được sống... Mai Văn Phúc cho rằng, khi bị cáo này về Vinalines, chỉ làm theo guồng máy đã có sẵn...
11h30', Tòa tạm dừng phiên xử. Dự kiến 14h ngày 7/5 Tòa sẽ tuyên án.
11h18’, Tòa cho các bị cáo nói lời sau cùng.
Dương Chí Dũng thừa nhận, với cương vị Bí thư, Chủ tịch HĐQT mà để xảy ra sai phạm tại Vinalines, bị cáo nhận tội, không chối cãi.
"Dù bản thân không nhận tiền tham ô nhưng nếu trong tình huống tòa buộc phải tuyên án, không làm thế nào được cũng xin cho bị cáo được sống. Bị cáo trông cậy vào tâm từ đức độ, sự công minh của HĐXX để không xảy ra tình trạng quýt làm cam chịu. Đây là món quà mà Đảng, nhà nước, nhân dân dành cho bị cáo cho những thời gian, thành tích đã cống hiến của bị cáo để chứng kiến ngày mọi việc được làm rõ vì oan mà chết thì không nói với ai được" - Cựu Chủ tịch Vinalines khẳng định đây là mong muốn cuối cùng, mong muốn lớn nhất lúc này.
Mai Văn Phúc đề nghị xem xét minh oan cho bị cáo ở cả 2 tội. Phúc trình bày, dù bản thân đã cố gắng hết sức, những sự việc tại Vinalines vẫn xảy ra vì khi bị cáo về mọi người đã sắp đặt hết cả, bị cáo chỉ làm theo trong guồng máy đó. Tuy vậy, bị cáo cũng nhận phần trách nhiệm của mình.
Trần Hải Sơn cho biết, quá trình điều tra và xét xử, bị cáo đã nhận thức được sai phạm của mình. Bị cáo mong muốn trong thời gian tới, gia đình bị cáo sẽ giúp bị cáo khắc phục hậu quả. Chỉ mong HĐXX và pháp luật lượng hình xét xử cho bị cáo một bản án đúng người, đúng tội cũng như các bị cáo khác trong vụ án này.
Trần Hữu Chiều đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm về tội cố ý làm trái của bị cáo. Về tội tham ô tài sản, bị cáo đề nghị HĐXX miễn truy cứu trách nhiệm hình sự với bị cáo vì tiền là bị cáo vay của Trần Hải Sơn, ngoài Sơn còn vay của nhiều người khác nữa… Về trách nhiệm dân sự, bị cáo đề nghị HĐXX xác định rõ ụ nổi không phải là tàu thì có thể xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho các cán bộ hải quan.
Mai Văn Khang đề nghị nếu không xem xét minh oan được cho bị cáo thì xin được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo cũng sẽ đề nghị gia đình thu xếp trong khả năng gia đình bị cáo có được để khắc phục hậu quả vụ án.
Nhóm bị cáo là cán bộ hải quan Huỳnh Hữu Đức, Lê Ngọc Triện, Lê Văn Lừng đều đề nghị tòa, nếu phán quyết ụ nổi không phải là tàu thì tuyên các bị cáo vô tội, nếu quyết định ụ nổi là tàu thì cũng xem xét mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, miễn trách nhiệm bồi thường dân sự cho các bị cáo.
11h9’, Đại diện VKS nêu quan điểm, luật sư đưa ra nhiều vấn đề để tranh luận thêm. VKS lưu ý một số vấn đề như “VKS để ngoài hồ sơ”, “VKS cố tình buộc tội không khách quan”… VKS có ý kiến, trình tự tố tụng một vụ án qua rất nhiều quy trình. Các quan điểm đưa ra đôi khi đối lập nhau là chuyện không phải ít trong hoạt động tố tụng.
Liên quan đến đề nghị của một số bị cáo về việc xem xét lại một số chứng cứ, công văn, tình tiết trong cáo trạng… VKS cho rằng các chi tiết không phải là lớn, có ý nghĩa quyết định đối với bản chất hành vi của các bị cáo.
Vấn đề vé máy bay của Dương Chí Dũng, VKS cho rằng đã đưa ra các dữ liệu chính xác thể hiện trên giấy tờ, lên máy bay 15h chiều thì 18h cũng có thể về đến khách sạn. Đây chỉ là một tình tiết nhỏ, nếu không có các nguồn tài liệu đối chứng thì cũng không thể kết tội các bị cáo được.
“Gần 7000 bút lục, không phải cái gì VKS cũng dẫn ra tại phiên tòa hôm nay nhưng không có nghĩa là bỏ ra ngoài hồ sơ, không xem xét đến” – đại diện cơ quan công bố “phản đòn” luật sư.
Đại diện VKS đánh giá, diễn biến suốt những ngày xét xử vừa qua thừa đủ căn cứ cho tòa án đánh giá, phán xét về hành vi, tội trạng của mỗi bị cáo. Đây là lần đầu với tư cách công tố viên, vị đại diện VKS tham dự một phiên tòa HĐXX trở lại xét hỏi lâu như này.
11h3’, Dương Chí Dũng xin được trình bày thêm. Nguyễn Hùng Việt là người trợ lý cho Dương Chí Dũng ở phía Nam, là người đón Dũng từ sân bay trong ngày Sơn khai mang tiền đến khách sạn Victory cho Dũng. Sau đó 2 người đi ăn luôn, chưa về khách sạn. Dũng nói vừa nhớ ra chi tiết này, đề nghị xác minh lại chỗ người trợ lý này.
Dương Chí Dũng cũng đề nghị làm rõ làm thế nào bị cáo có thể mang được valy tiền 5 tỷ đồng lên máy bay, mang về Hà Nội mà có thể qua được quy trình giám sát ở sân bay.
11h2’, Bị cáo Bùi Thị Bích Loan có ý kiến. Ngày 7/3/2008, dù đã nhận được báo cáo là hồ sơ còn thiếu chứng từ, Loan vẫn ký chuyển 10% tiền đặt cọc vào tài khoản chung. Loan phân tích, việc chuyển tiền đặt cọc chưa cần có hồ sơ vì chưa phải là hoạt động thanh toán nên không có chuyện nhận được báo cáo về việc thiếu hồ sơ, chứng từ được.
10h56’, Luật sư Trần Đình Triển xuất trình thêm bảng lương tại công ty của Trần Hải Sơn tại Sài Gòn thể hiện lái xe tên Quỳnh chỉ bắt đầu được trả lương từ tháng 9/2008.
10h49’, Luật sư Nguyễn Đình Hưng cho rằng còn nhiều vấn đề phải bàn trong vụ án. Kết quả tái thẩm vấn theo ông Hưng rất có ý nghĩa chứ không như đánh giá của VKS. Các bị cáo theo đó không có sự cấu kết, liên hệ chặt chẽ với nhau để thực hiện các hành vi phạm tội. Trong vụ án này, theo ông Hưng, cần đánh giá chứng cứ trên nền nguyên tắc án hình sự, việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm là trách nhiệm của cơ quan điều tra, tố tụng.
10h40’, Đề cập việc phát sinh những chi tiết theo thời khai của Sơn, Hà, Huyền, Hưng – những người là anh em ruột thịt trong nhà, theo ông Thiệp, về nguyên tắc, cần đánh giá tính khách quan của những người này. Hơn nữa, đây cũng chỉ là thông tin về việc chuẩn bị, còn khâu quan trọng nhất là đưa tiền thì cũng chỉ có lời khai duy nhất là Trần Hải Sơn, không có chứng cứ đối chứng.
Ông Thiệp trở lại yêu cầu thực nghiệm thao tác đút một túi nilon đựng 5 tỷ đồng (50 cọc tiền 500.000 đ) vào một túi xách có nhiều ngăn. Liệu có thực hiện được việc này không?
Tiếp tục tính toán theo việc cộng lại các khoản tiền các bị cáo đã khai, tổng số tiền Hà đã chuyển cho Sơn là 10,1 tỷ đồng. Vậy thì Sơn lấy thêm đâu gần 10 tỷ nữa để đưa cho các sếp. Chỉ chi tiết số liệu này, ông Thiệp cũng cho rằng phải làm lại.
10h32’, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp nhận định về các văn bản ủy thác tư pháp từ Nga đã được cung cấp cho tòa. Luật sư thắc mắc, sao có nhiều văn bản có từ tháng 11/2013, tháng 1, tháng 3 năm nay mà đến thời điểm điểm nút của phiên tòa như này mới được chuyển đến cho tòa. Hồ sơ cũng không thể hiện văn bản yêu cầu điều tra là về những vấn đề gì. Trả lời của phía nước bạn cũng nêu rõ mới chỉ là chuyển hồ sơ ban đầu. Ông Thiệp đặt câu hỏi: “Đây chỉ là một bước để hợp thức hóa, đầy đủ hóa hình thức điều tra vụ án mà không để dụng công xem xét, đánh giá chứng cứ?”.
Ông Thiệp nhận định, chỉ có 2 trang về lời khai của một nhân chứng tại Nga (ông Priscout) có giá trị với vụ án này nhưng người dịch thì chỉ một từ phổ thông là “viện kiểm sát” viết thành “viện kiểm soát” thì có đáng tin cậy?
Toàn bộ tài liệu thể hiện quan hệ giữa Global Succes (GS) với Nakhodka, giữa GS với AP không có giá trị chứng minh, không cần thiết đối với vụ án. Cái cần, theo ông Thiệp là chứng minh người đại diện theo ủy quyền của GS được ai ủy quyền để ký thoá thuận ngày 10/7/2007 về việc chuyển 1,666 triệu USD cho một công ty do GS chỉ định (chính là công ty Phú Hà).
Người tiếp nhận chào giá ụ nổi 83M là Sơn, người đi khảo sát, làm báo cáo về ụ nổi này là Sơn, người đi Nga để đưa ụ nổi về, lo thủ tục để ụ được thông quan là Sơn. Người nhận tiền lại quả cũng là Sơn… Ông Thiệp đặt câu hỏi nghi vấn về vai trò “giúp sức” cho các sếp để “ăn” ụ nổi của bị cáo này. Tỉnh trạng đặt ra trong vụ án, luật sư so sánh là các bị cáo đầu vụ đang bị “gắp lửa bỏ tay người”?.
“Trách nhiệm trước mạng sống của con người đặt ra trong vấn đề này như thế nào. Tại sao cơ quan điều tra không muốn chứng minh sự thật là một việc cần phải xem xét từ nhiều góc độ khác” – luật sư gay gắt.
10h31’, Luật sư bảo lưu quan điểm đề nghị tòa tuyên hủy án sơ thẩm, trả hồ sơ để làm rõ các vấn đề chưa rõ để việc kết tội một con người ở mức án cao nhất cũng phải xác đáng.
10h17’, luật sư Trần Đình Triển phân tích lại vé máy bay của thân chủ, vé ghi 15h nhưng đó là giờ lên máy bay, tối thiểu 15h30 máy bay mới có thể cất cánh được.
Luật sư cũng dẫn lại lời khai của lái xe tên Quỳnh “tôi đến đón anh Sơn lúc khoảng 17h30 chiều tại khách sạn Victory” nhưng lại không lấy lời khai của trợ lý của Dương Chí Dũng xem ngày đó đến đón Dũng tại sân bay là lúc mấy giờ.
Vấn đề khác, liên quan đến văn bản của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, ông Triển khuyến nghị không tách ra. Trước đó, một văn bản năm 2006 Phó Thủ tướng chưa đồng ý thực hiện dự án. Vậy nếu không đồng ý thì sao văn bản sau lại cho phép thực hiện chỉ định thầu.
Đánh giá về chứng cứ mới đến từ phía Nga, ông Triển cho là rất có lợi cho các bị cáo vì các tài liệu thể hiện Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc không hề tham gia, có trao đổi gì trong suốt qúa trình mua ụ nổi 83M mà đều là Trần Hải Sơn “đạo diễn” mọi khâu, mọi việc.
10h10’, luật sư Hoàng Huy Được nêu ý kiến về văn bản năm 1995 của Ngân hàng Hàng hải mà VKS nhận định không có giá trị chứng minh. Ông Được cho rằng, thông tin trong văn bản này được kiểm chứng bằng đại diện ngân hàng đến tòa hôm nay.
Trong 1 buổi chiều, 1 đêm, dù đã huy động những cán bộ có nghề, giỏi nhất của ngân hàng để tra cứu thì có nhận định không có giao dịch nào từ tháng 8/2008 đến tháng 2/2009 của Trần Hải Sơn. Để tránh sai sót thì cần có thời gian thêm nhưng cũng đến 95% là không có giao dịch này.
Vậy mà VKS vẫn cho rằng đủ căn cứ quy kết hành vi chuyển tiền của Trần Hải Sơn cho các sếp.
Không đủ căn cứ để cáo buộc Mai Văn Phúc nhận 10 tỷ đồng từ Trần Hải Sơn vì theo tính toán, trong 28 tỷ đồng chuyển về Phú Hà, Sơn đã vung tán đi hết rồi mà cộng lại vẫn dôi gần 3 tỷ. Ông Được đặt câu hỏi về tính hợp lý trong lời khai của Trần Hải Sơn.
10h03', luật sư Ngô Ngọc Thủy ý kiến về việc vắng mặt một kiểm sát viên trong phần xét hỏi thêm tại tòa so với phần đầu phiên xử phúc thẩm.
Ông Thủy nêu, việc anh Quỳnh lái xe được cho là người chứng kiến sự kiện Trần Hải Sơn đưa tiền cho Dương Chí Dũng vẫn cần phải thẩm định lại trực tiếp từ anh Quỳnh xem anh này đi làm cho Sơn từ tháng 3 hay tháng 8/2008 mới bắt đầu làm.
Tình tiết khác là đến thời điểm này Ngân hàng Hàng hải cũng chưa xác định được có việc Trần Hải Sơn rút tiền để mang đến cho Dũng, Phúc theo lời khai không. Việc tra soát này cần thêm thời gian, luật sư mong tòa tạo điều kiện vì việc này liên quan đến mạng sống của 2 con người.
Việc thông tin tương trợ tư pháp mang lại, ông Thủy cho rằng, nội dung không nên bó hẹp ở những văn bản như tòa công bố sáng nay mà phải làm rõ ai là người đưa ra con số 1,666 triệu USD mà Global Success chỉ định công ty AP chuyển về cho Phú Hà.
Với những khiếm khuyết của việc quy kết và chứng cứ quy kết, luật sư Thủy vẫn đề nghị tòa tuyên hủy án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vụ án.
10h, Bị cáo Mai Văn Khang trình bày, VKS vẫn không làm rõ được cho bị cáo những vấn đề đặt ra từ phiên sơ thẩm đến phúc thẩm gần 1 tuần qua.
Việc xem xét công văn số 17 của C48 gửi VKSND tối cao đã loại bỏ trách nhiệm của bị cáo nhưng đến thời điểm này cơ quan buộc tội vẫn chưa đưa ra được bất cứ bằng chứng kết tội nào với bị cáo.
Tình tiết tăng nặng cấp sơ thẩm nêu ra, Mai Văn Khang đề nghị xem xét.
9h43’, Trong khi Dương Chí Dũng không nêu quan điểm gì thêm, Mai Văn Phúc lại khẳng định có rất nhiều vấn đề mới để tranh luận.
Lời khai của Trần Hải Sơn ở cáo trạng đã lộ rõ mâu thuẫn, Sơn lấy đâu 5 tỷ đồng để đưa cho Phúc dịp tết 2008 vì khi đó tiền Hà rút đưa Sơn đã hết mà Huyền còn chuyển lại cho chị 3 tỷ đồng khi đó. Khoản Sơn khai rút 2 tỷ thì không chứng minh được.
Bị cáo Mai Văn Phúc yêu cầu xem xét về khoản tiền Trần Hải Sơn khai mang 5 tỷ đồng cho bị cáo.
Sơn khai cùng Khang, Chiều vào báo cáo Phúc về ụ nổi 83M, Phúc vẫn chỉ đạo về hoàn thiện hồ sơ việc mua ụ nổi. Tuy nhiên cả 3 người đều phủ nhận về việc này. Vậy cả 3 cùng đồng lòng vu oan cho Sơn.
Phúc cho rằng, thỏa thuận của Sơn từ 7/10/2007 đã thể hiện việc ăn chia xong hết từ bên Nga rồi, vậy thì còn nội dung gì mà về báo cáo bị cáo.
Vấn đề khác Phúc đề nghị xem xét là đại diện Citibank đã nhiều lần khẳng định bộ chứng từ mua ụ nổi hoàn toàn đầy đủ. Bộ chứng từ chắc chắn hiện vẫn lưu giữ tại Ngân hàng này, bị cáo đề nghị tòa xác minh.
Bị cáo Trần Hữu Chiều lại nói có rất nhiều việc. Bị cáo thấy công ty AP là đơn vị sẽ 2 lần nhận tiền của bên bán (án sơ thẩm đã thể hiện ở trang 24, 25, 26). Chiều nghi ngờ trình độ tiếng Anh của Sơn có đủ nghe để hiểu lời ông Goh truyền đạt về tỷ lệ chia chác như nào, đủ để thương thảo hợp đồng với Global Success thế nào hay phải có người khác tham gia hỗ trợ…
“Bản thân bị cáo cũng nghi rằng phải có anh Dũng, anh Phúc chỉ đạo mới làm được việc này nhưng không phải…” – Chiều cố gắng diễn giải. Chiều cũng đề nghị xem xét lại khi Bộ GTVT vẫn khẳng định ụ nổi không phải là tàu. Có rất nhiều điều có thể bị oan sai từ nhận định này.
9h40’, Về bản tuyên thệ của ông Goh, đại diện VKS giữ nguyên quan điểm đánh giá ban đầu.
Về tài liệu tương trợ tư pháp từ Nga mới nhận được, kiểm sát viên nhận định, những nội dung tài luệu này không ảnh hưởng gì đến phân tích nhận định của VKS về hành vi tham ô của các bị cáo.
Kết lại, VKS giữ nguyên kết luận đã nêu tại phiên tòa phúc thẩm vì phần xét hỏi thêm cũng không làm rõ được vấn đề gì mới làm thay đổi vụ án.
9h39’, Về thư chào giá ụ nổi 83M của AP gửi tới Phó Tổng GĐ Bùi Văn Trung, ông Trung được triệu tập đến tòa đã nói vì đảm nhiệm phần công việc đối ngoại của TCTy nên nhận được nhiều văn bản tương tự. Ông Trung cũng khẳng định không liên quan gì đến việc mua ụ nổi 83M.
9h33’, Chuyển sang văn bản của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đồng ý cho áp dụng chỉ định thầu với dự án đầu tư nhà máy sửa chữa tàu biển phía Nam, đại diện VKS cho rằng đây không phải là chứng cứ vì chỉ là bản photo nhưng kiểm sát viên cũng phân tích thêm, đây là chỉ đạo đối với việc lựa chọn nhà thầu, xây dựng…. ký đầu năm 2008 nhưng khi đó ụ nổi 83M đã được mua xong xuôi. Như vậy văn bản này cũng không loại trừ việc các bị cáo làm sai.
9h36’, Kiểm sát viên điểm lại văn bản trả lời của Ngân hàng Hàng hải về thời hạn lưu giữ chứng từ 30 năm cũng chỉ có tính chất chung. Việc có hay không có tra được dữ liệu về việc rút tiền của Trần Hải Sơn tại ngân hàng này thì không thể hiện. Trong khi đó, văn bản xác minh của CQĐT nêu rõ, giao dịch bằng chứng minh thư của Sơn phần mềm của ngân hàng không truy soát được nên không có căn cứ khẳng định.
Tại phiên tòa này, đại diện ngân hàng cũng chưa tra soát được nhưng cũng không khẳng định có hay không việc rút tiền như Trần Hải Sơn khai.
9h25’, Tòa kết thúc phần xét hói, chuyển sang phần tranh luận. Đại diện VKS kết luận các vấn đề mới thể hiện. Đại diện VKS cho rằng phần xét hỏi thêm tập trung vào các chứng cứ, tài liệu mới luật sư xuất trình lại phiên tòa để đánh giá hành vi các bị cáo, tiếp nhận kết quả tương trợ tư pháp, ngoài ra thì nhiều vấn đề lặp đi lặp lại.
Qua kết quả xét hỏi, đại diện cơ quan công tố đánh giá lại việc luật sư Trần Đình Triển xuất trình tòa vé máy bay Dương Chí Dũng bay vào Sài Gòn và hợp đồng lao động của anh Quỳnh lái xe để chứng minh việc Sơn khai gọi điện thoại cho Dũng, mang tiền đến khách sạn Victory là vô lý vì khi đó Dũng còn đang trên máy bay.
Sơn chỉ khai là đưa tiền vào khoảng 18h, có thể du di chứ không hẳn là chuẩn xác như vậy. Trong khi vé máy bay của Dương Chí Dũng bay vào lúc 15h chiều. VKS cho rằng từ lúc bay đó để đến được khách sạn lúc 18h là hoàn toàn có thể thực hiện, không mâu thuẫn gì, thậm chí vẫn… dư thời gian.
Việc liên lạc bằng điện thoại đúng lúc Dũng trên máy bay thì VKS đánh giá lại, Sơn không khai thời điểm cụ thể gọi điện mà nói trước đó có điện thoại cho Dũng vì biết lịch công tác của Dũng vào TPHCM. Điều này cũng hợp lý.
Hợp đồng lao động của người lái xe tên Quỳnh, như giải thích của Sơn, có nhiều hợp đồng thử việc 1 tháng /lần. 1 bản hợp đồng luật sư đưa ra, theo đó, không phải là căn cứ để bác kết luận về việc Dũng nhận 5 tỷ đồng do Sơn mang đến khách sạn Victory giao.
9h16’, Đại diện Ngân hàng Hàng hải được yêu cầu trình bày kết quả xác minh việc rút tiền của Trần Hải Sơn. Ông này nêu rõ, đã tra soát suốt cả đêm qua cũng không tìm ra được giao dịch nào của người này. Ông này đề nghị xin cho thêm thời gian để có thể trả lời chắc chắn về việc này.
“Cho đến thời điểm này thì không có giao dịch nào như yêu cầu tra soát của tòa” – đại diện ngân hàng Hàng hải nêu rõ.
9h12’, luật sư Hoàng Huy Được yêu cầu nhân chứng Trần Thị Hải Hà xác nhận việc nhận tổng số 1,666 triệu USD từ công ty AP. Sau đó chị Hà đã rút 19,5 tỷ đồng bằng tiền mặt để giao cho Trần Hải Sơn.
9h6’, Tòa hỏi thêm đại diện Bộ Tài Chính, tại thời điểm tính thiệt hại là tháng 5/2012 nhưng tỷ giá USD lại chỉ căn cứ theo thời điểm lúc 2007 (mua ụ) thì có thiệt cho các bị cáo? Giám định viên khẳng định, nguyên tắc là tính từ thời điểm mua ụ nổi, khi sự việc phát sinh. Còn việc chốt thời điểm ngày 17/5/2012 là theo sổ sách giấy tờ của Vinalines.
Luật sư Nguyễn Văn Chiến hỏi thêm, có cần thiết có Bộ GTVT tham gia thêm cơ quan giám định liên bộ để đánh giá ụ và tàu biển thế nào? Đại diện Bộ Tài Chính cho rằng việc có cần thêm cơ quan nào không là trách nhiệm của CQĐT Bộ Công an. Đại diện các Bộ không có thẩm quyền đề nghị can thiệp thêm. Tuy nhiên, các bộ cũng đủ năng lực chuyên môn để đưa ra vấn đề này. Ví dụ, chuyện ụ có phải là tàu không, Bộ Tài chính có thể tham gia nhiều trên cơ sở áp dụng công ước HS.
8h56’, Giám định viên của Bộ Tài Chính (thuộc cơ quan giám định liên Bộ - Bộ KH-ĐT, Công thương, KH-CN, Tài chính, NHNN, nhưng lại không có Bộ GTVT) nêu rõ, cơ quan giám định được trưng cầu theo quyết định của cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra nêu nhiều yêu cầu, tổ giám định làm việc tập thể. Bộ Tài Chính được giao trực tiếp thẩm định về thủ tục Hải quan nhập khẩu ụ nổi và cho thông quan thiết bị này có gì sai phạm không. Yêu cầu khác là giám định về thiệt hại do thương vụ ụ nổi mang lại.
Thiệt hại 367 tỷ đồng được cho là phát sinh từ nhiều khâu. Về phần sửa chữa ụ nổi 83M tại Việt Nam không nằm trong vụ án này vì được tách riêng thành một vụ án khác. Khỏan 1,666 triệu USD cũng do cơ quan công an làm. Cơ quan giám định liên ngành chỉ thực hiện theo yêu cầu của cơ quan điều tra.
Cách tính, tổng số tiền chi phí cho ụ nổi tính đến thời điểm khởi tố vụ án là 17/5/2012, trừ đi các khoản như giá mua là 2,3 triệu USD (coi như giá gốc mua ụ nổi. Tuy nhiên, nếu giờ đưa thẩm định giá không được 2,3 triệu USD thì thiệt hại tổng tăng lên, vượt quá giá này thì thiệt hại tổng giảm đi. Tuy nhiên vì đây là tang vật vụ án, chưa thể tính toán khoản này), phí bảo hiểm, lai dắt, các khoản đóng thuế… Sau khi loại trừ những khoản này thì còn lại phần 367 tỷ đồng gọi là thiệt hại.
Đối chiếu thiệt hại này với trách nhiệm của nhóm bị cáo là các cán bộ Hải quan Vân Phong, đại diện Bộ Tài Chính cho biết, việc phân bổ trách nhiệm như nào, ai phải bồi thường nhiều, ai ít là trách nhiệm của cơ quan xét xử, không phải của giám định viên. Tuy nhiên, giám định viên ở mỗi phần việc đều đưa ra nhận xét làm như thế có đúng hay không, trách nhiệm như nào.
Cụ thể, với các cán bộ Hải quan, cơ quan giám định không cho rằng nhóm bị cáo này sai. Ý kiến sau cùng của cơ quan giám định là đề nghị CQĐT Bộ Công an tiếp tục điều tra để làm rõ thêm.
8h53’, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp đề nghị được hỏi nhân chứng Trần Thị Hải Hà. Hà xác nhận, ngày 6/9/2008 Hà có nhận số tiền 3 tỷ đồng từ tài khoản của em gái Trần Thị Hải Huyền. Sau đó Hà đã rút ra bằng tiền mặt.
Chị Trần Thị Hải Huyền cho rằng, việc này có thể đối chứng bằng chứng từ tài liệu của ngân hàng các nhân chứng đã nộp. Chị Huyền xác nhận có chuyển khoản tiền 3 tỷ đồng này.
8h49’, Tòa tiếp tục hỏi bị cáo Trần Hải Sơn. Tòa nhắc lại lời khai của Sơn về việc rút tiền từ Ngân hàng Hàng hải bằng chứng minh thư. Sơn xác nhận nội dung 2 lần rút tiền, tại Hải Phòng và Hà Nội. Tuy nhiên, Sơn cũng nói thêm bản thân nhớ về cách thức, thời điểm rút tiền đến nay không còn rõ ràng.
Sơn có tài khoản tại Ngân hàng Hàng hải vì cơ quan mở cho mỗi nhân viên tại Ngân hàng Hàng hải Vũng Tàu để trả lương.
Việc ký hợp đồng lao động với lái xe Quỳnh, Sơn khẳng định là từ tháng 3/2008, khi công ty của Sơn tại Sài Gòn đi vào hoạt động.
8h48’, Luật sư Trần Thị Hồng Phúc cho rằng tài liệu này có tính chất quyết định đối với việc có tội hay không có tội của nhóm bị cáo hải quan nên luật sư cho rằng tài liệu này đang mâu thuẫn với các tài liệu đang được sử dụng một cách hợp pháp tại Việt Nam. Khác nhau cơ bản nhất là về khái niệm ụ và tàu.
8h45’, Luật sư Nguyễn Đình Hưng không nhất trí hướng nhận định của đại diện VKS về tính hợp pháp của tập tài liệu. Theo ông Hưng, nếu có yêu cầu thu thập tài liệu của tòa thì phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung trước.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa giải thích, có tài liệu này là xuất phát từ yêu cầu tương trợ tư pháp từ cơ quan điều tra. Trên cơ sở yêu cầu này, VKSND tối cao đã gửi văn bản tới Tổng Viện kiểm sát Nga. Từ đó Tổng Viện này mới có công văn chuyển toàn bộ tài liệu theo yêu cầu như các nội dung VKSND tối cao nêu ra.
8h39’, Phát biểu quan điểm nhận định về những tài liệu này, đại diện VKS nói, sau khi nghiên cứu tài liệu này trong chiều, tối qua, kiểm sát viên thấy quy trình thu thập tài liệu đúng với quy định, có thông qua cơ quan tương trợ tư pháp liên bang Nga, cơ quan này sau đó mới chuyển đến Vụ hợp tác quốc tế VKSND Tối cao rồi đưa sang vụ 1B, sau mới chuyển sang tòa chiều 28/4.
Đánh giá tài liệu chứng cứ này có được xem xét trong vụ án hay không, kiểm sát viên cho rằng, trong phiên tòa kéo dài đã gần 1 tuần, trong yêu cầu bức xúc của luật sư là cần phải có tương trợ tư pháp từ Nga, nếu tài liệu này mà giữ không đưa đến tòa thì cũng là một trách nhiệm của cơ quan này. Nếu không đầy đủ tính hợp pháp thì việc tài liệu gửi đến cũng có thể để tham khảo.
Còn VKS đề nghị Nga làm rõ quan hệ trong việc chuyển 1,666 triệu USD trong số 4,3 triệu USD mà công ty GS nhận được trong thương vụ mua bán ụ nổi 83M. Tuy nhiên yêu cầu này trước đó không được đáp ứng vì quá thời hạn lưu trữ hồ sơ của Nga. Còn tài liệu này nếu tòa thấy thiếu, cho rằng không có thì không thể đủ cơ sở tuyên các bị cáo có tội thì VKS cũng sẵn sàng đề nghị tuyên hủy án sơ thẩm, điều tra lại.
8h38’, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho biết, khi gửi các luật sư tòa chỉ đưa bản dịch tiếng Việt, còn bản gốc, có bản tiếng Nga. Tòa nhận được tập tài liệu từ vụ 1B VKSND Tối cao, có kèm tài liệu của Vụ hợp tác quốc tế. Khi tài liệu tương trợ tư pháp này gửi đến có cả chứng nhận của Tổng lý VKS liên bang Nga.
8h35’, Luật sư Lê Minh Công đặt vấn đề, tài liệu được thu thập sau khi vụ án đã được đưa ra xét xử sơ thẩm. Như vậy, không rõ quy trình thu thập như nào, có thể xem đây là tài liệu của vụ án này không? Ông Công đề nghị bỏ ra ngoài tập tài liệu mới này vì chỉ làm mất thời gian của tòa.
8h34’, Luật sư Hoàng Huy Được cho rằng, tài liệu tư pháp với nước ngoài theo quy định phải được dịch và chứng thực tại cơ quan lãnh sự ngoại giao. Không đáp ứng điều kiện này, tài liệu dù có lợi hay không có lợi cho bị cáo thì cũng không được sử dụng như một chứng cứ của vụ án.
8h32’, Luật sư Nguyễn Văn Chiến đề cập chi tiết ụ nổi trong tài liệu được dịch là tàu nhưng theo các khái niệm là “tàu sức nâng”. Ông Chiến yêu cầu việc dịch phải giao cho một cơ quan có đủ chuyên môn, thẩm quyền thực hiện.
8h30’, Luật sư Trần Đình Triển nêu rõ, tập tài liệu từ Nga thể hiện ngày 12/3/2014 đã gửi, kèm đó là bản khai của nhân chứng từ tháng 11/2013. Như vậy trước phiên xử này đã có hồ sơ. Theo trả lời của Nga, họ rất để ý đến khoản 1,2 triệu USD và 2,3 triệu USD là tiền thanh toán ụ nổi và tiền thù lao cho công ty trung gian. Vậy mà sao những tài liệu theo hướng có lợi cho thân chủ của ông Triển như này mà giờ mới đến tòa?
8h25’, Luật sư Nguyễn Huy Thiệp cũng cho rằng tập tài liệu này không đúng giá trị pháp lý để sử dụng như chứng cứ tại tòa khi không có bản chính tiếng Nga đính kèm (tài liệu do văn phòng công chứng, dịch thuật Hoài Đức, Hà Nội thực hiện dịch, chứng thực).
Luật sư Thủy ý kiến về tài liệu của tòa, VKS công bố
8h23’, Tòa chuyển sang tiếp tục xét hỏi. Luật sư Ngô Ngọc Thủy nêu băn khoăn, không biết tòa, VKS tiếp nhận hồ sơ này như thế nào, đây có thể coi là hồ sơ gì về mặt tố tụng khi nhiều văn bản không có chứng thực.
8h, Tòa công bố tài liệu xác minh về ông Andrevich không phải là người của Nakhodka. Ông Andrevich chính là người đại diện đã ký thỏa thuận hợp tác giữa Global Success và công ty AP.
Từ giai đoạn 2007 đến nay, Nakhodka không có quan hệ nào với công ty Global Success (GS). Ông này nói chỉ là người đại diện của GS, không có vai trò gì trong công ty. Công ty GS chỉ đóng vai trò đại lý. Khi ông Goh đến, ông này đón ở sân bay đưa đến khách sạn giao dịch với lãnh đạo nhà máy Nakhodka.
Ông không biết có ký các thỏa thuận khác ngoài thỏa thuận làm đại lý bán ụ nổi. Việc ký này có lợi cho các bên và được bên GS đồng ý.
GS đã chuyển cho AP hơn 3,4 triệu USD và cho cá nhân ông Andrevich nhận hơn 1 triệu USD. Ông này khẳng định bản thân không nhận khoản tiền mặt nào từ thương vụ này, chỉ nhận “lương của công ty”.
Ông này cũng thừa nhận có thể ký một số văn bản mà không nhớ nội dung. Tuy nhiên, ông này không biết tiền được chuyển cho Phú Hà cũng như tiền chuyển cho ai, qua đâu. Từ khi ký cũng không có ai chuyển tiền, thông tin tới ông này.
Cục quản lý di cư liên bang Nga cũng cung cấp lý lịch của nhân chứng đã ký hợp đồng thỏa thuận giữa GS với AP. Bộ Nội vụ liên bang Nga thì chứng nhận về việc di chuyển ụ nổi khỏi địa phận Nga.
Ngoài ra, còn có tài liệu thể hiện các thông số của ụ nổi 83M. Công ty cổ phần Nakhodka cũng trình với hải quan Nga về những hợp đồng mua bán, thanh toán qua ngân hàng Bờ biển. Điều khoản hợp đồng nêu rõ, 28/2/2007, bên bán là công ty Nakhodka, bên mua là công ty AP.
Phương Thảo