Lá mọc so le, hình trứng hay bầu dục thuôn, gốc gần bằng, đầu nhọn, mép lượn sóng, mặt trên màu lục sẫm bóng, mặt dưới trắng nhạt; cuống lá như ôm vào thân. Hoa màu trắng, thành bông ở ngọn và ở nách lá, phủ lông dính, tràng hoa dài gấp đôi đài. Quả thường lép. Cây ra hoa quả gần như quanh năm, chủ yếu vào tháng 5-6.
Cây đuôi công hoa trắng.
Theo y học hiện đại, cây thuốc có tác dụng chống viêm, kháng nấm, chống đông máu, chống bệnh bạch cầu lympho. Theo tài liệu nước ngoài còn dùng chữa phong và ung thư...
Trong Đông y, để làm thuốc là rễ và lá. Rễ đào về, rửa sạch, cắt đoạn ngắn rồi phơi khô dùng dần. Lá thường được dùng tươi. Dược liệu có vị cay, tính nóng, có độc, có tác dụng thông kinh hoạt huyết, tán ứ, sát trùng tiêu viêm, khu phong trừ thấp. Thường dùng toàn cây và rễ dùng trị đau khớp, kinh bế, đòn ngã tổn thương, thũng độc, nhọt lở. Dùng riêng rễ trị phong thấp đau xương; Lá cũng dùng đắp làm tiêu sưng nhức khớp, vết thương ngoài da
Chú ý: Dùng lá giã đắp không nên kéo dài quá 15 phút vì dùng lâu da có thể bị kích ứng gây tổn thương. Hoặc có thể sử dụng một miếng giấy gạc mỏng làm đệm lót đắp lá lên.
Do vị thuốc này có độc tính mạnh nên phụ nữ có thai không được dùng. Dưới đây là một số bài thuốc điển hình:
Trị bong gân, sai khớp, tê thấp nhức mỏi: rễ đuôi công hoa trắng 20g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Hoặc dùng bài: rễ đuôi công hoa trắng 100g, rửa sạch, phơi khô, thái mỏng, sao vàng, ngâm với 500ml rượu trắng, trong 20-30 ngày là có thể dùng được. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 15-20ml trước bữa ăn.
Chữa huyết áp cao: toàn cây đuôi công hoa trắng 16g, lá dâu 20g, hoa đại 12g, quyết minh tử 16g, cỏ xước 12g, ích mẫu 12g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trị đau dạ dày, mát gan: rễ đuôi công hoa trắng 12g, nhân trần 20g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Phụ nữ chậm kinh: toàn cây đuôi công hoa trắng16g, lá móng tay 40g, củ nghệ đen 20g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Khi thấy kinh trở lại phải dừng uống thuốc ngay.
Chữa đại tiện táo: lá đuôi công hoa trắng nấu chín, ăn cái, uống nước (khoảng 1 bát 200ml), sau 1 giờ đi đại tiện được, người không mệt. Hoặc có thể giã nát hay vò lá bạch hoa xà lọc lấy nước uống.
Bệnh bạch huyết (ung thư máu): rễ đuôi công hoa trắng 15g (sắc trước), sau cho thêm hạt cọ xẻ, lưỡi rắn trắng (bạch hoa xà thiệt thảo), cỏ roi ngựa đều 30g; hạ khô thảo 15g. Sắc nước cô đặc làm hoàn chia uống 3 lần trong ngày.
Thuốc dùng ngoài
Chữa đau nhức xương, tê thấp: rễ đuôi công hoa trắng phơi khô, thái nhỏ, tán bột, trộn với dầu vừng để xoa bóp khi bị đau nhức xương.
Viêm da thần kinh, viêm da mạn tính, mụn nhọt, chốc lở: lá tươi hay rễ non, giã nát, đắp vào vết thương cách 2-3 lớp gạc.
Sưng đau do chấn thương: đuôi công hoa trắng 5 lá, thêm cỏ ban, lớp vỏ trong cây thông và lá xoan mỗi thứ 20g, giã chung thêm rượu trộn đều đắp vào chỗ đau trong 30 phút (không đắp lên vết thương hở).