Có rất nhiều thuốc dùng để trị tình trạng này, tuy nhiên người bệnh phải dùng đúng cách, mới mong có hiệu quả tối ưu và tránh tái phát bệnh...
Có nhiều nguyên nhân gây viêm loét dạ dày như do vi khuẩn H. Pylori, thừa acid dịch vị, stress, thói quen ăn uống, sinh hoạt không điều độ, do sử dụng thuốc (thuốc chống viêm không steroid, corticoid)... Người bệnh có các triệu chứng: Đau tức vùng bụng trên; ợ hơi, ợ chua, nóng rát vùng thượng vị; buồn nôn, ăn không ngon, mất ngủ, xuất huyết dạ dày... Khi có các triệu chứng này người bệnh cần đi khám để được dùng thuốc hợp lý. Một số nhóm thuốc sau thường được sử dụng trong điều trị viêm loét dạ dày:
Thuốc kháng acid
Nhóm thuốc này có tác dụng trung hòa acid trong dịch vị của dạ dày, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái tạo niêm mạc. Tác dụng của thuốc nhanh nhưng ngắn nên chỉ là thuốc điều trị cắt cơn đau (triệu chứng). Các thuốc trong nhóm này gồm các sản phẩm có chứa magnesi hydroxyd hoặc nhôm hydroxyd hoặc cả hai. Dùng thuốc kháng acid tốt nhất là sau bữa ăn 1 - 3 giờ và trước khi đi ngủ, 3 - 4 lần (hoặc nhiều hơn) trong một ngày.
Hình ảnh viêm loét dạ dày.
Thuốc giảm tiết acid
Có tác dụng ngăn cản, ức chế sự bài tiết acid dịch vị, gồm thuốc kháng histamin H2 như: ranitidin, cimetidin, famotidin... và thuốc ức chế bơm proton như omeprazol, pantoprazol, lansoprazol...
Với các thuốc kháng histamin H2, tác dụng của thuốc sẽ phụ thuộc vào liều lượng dùng. Tuy nhiên, trước khi dùng các thuốc này cần phải loại trừ khả năng ung thư dạ dày ở người bệnh, vì thuốc có thể che lấp các triệu chứng, làm chậm chẩn đoán ung thư. Khi dùng thuốc có thể gây tiêu chảy và các rối loạn tiêu hóa khác, đau đầu, chóng mặt, phát ban. Các thuốc nhóm này cũng làm giảm hấp thu một số thuốc như kháng sinh (penicilin V), thuốc chống nấm (ketoconazol, itraconazol...), vì vậy, nếu người bệnh đang dùng một trong các thuốc trên cần thông báo cho bác sĩ biết để có được lời khuyên cần thiết.
Đối với các thuốc ức chế bơm proton, thuốc này cũng có tác dụng làm giảm bài tiết acid do bất kỳ nguyên nhân gì, nhưng bất lợi của thuốc là có thể gây khô miệng, rối loạn tiêu hóa, tăng enzym gan, đau đầu, chóng mặt, rối loạn thị giác, thay đổi về máu, viêm thận, liệt dương (nhất là khi dùng liều cao kéo dài) và phản ứng dị ứng. Do làm giảm độ acid trong dạ dày, nên làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn đường tiêu hóa... Vì vậy, người bệnh không được tự ý mua dùng hay dùng theo lời mách bảo.
Thuốc bao phủ ổ loét
Một số thuốc có tác dụng bao phủ ổ loét như bismuth, sucralfat...
Các muối bismuth có tác dụng bảo vệ tế bào niêm mạc dạ dày do làm tăng tiết dịch nhày; bao phủ chọn lọc lên đáy ổ loét, tạo chelat với protein, làm thành hàng rào bảo vệ ổ loét chống lại sự tấn công của acid và pepsin và diệt vi khuẩn H.Pylori (khi phối hợp với các thuốc khác như kháng sinh, thuốc ức chế bơm proton)... Khi dùng thuốc có thể gây buồn nôn, nôn; đen miệng, đen lưỡi, đen phân (nhưng không nguy hiểm). Còn sucralfat là thuốc chủ yếu có tác dụng tại chỗ, gắn với protein xuất tiết tại ổ loét, bao phủ vết loét, bảo vệ ổ loét khỏi bị tấn công bởi acid dịch vị, pepsin và acid mật. Uống thuốc 1 giờ trước các bữa ăn và trước khi đi ngủ, trong 4- 8 tuần.
Nhóm kháng sinh
Nhóm kháng sinh đánh vào nguyên nhân do nhiễm vi khuẩn H.Pylori. Tuy nhiên, nhóm kháng sinh này thường được phối hợp với các thuốc điều trị khác như nhóm ức chế bơm proton hoặc thuốc bao phủ ổ loét hoặc cả hai để diệt vi khuẩn này một cách hiệu quả. Phác đồ điều trị có thể 3 thuốc hoặc 4 thuốc (tùy thuộc vào tình trạng bệnh). Ví dụ phác đồ 3 thuốc gồm: một thuốc ức chế bơm protonvà 2 kháng sinh (amoxicilin với clarithromycin hoặc metronidazol)... Đây là phác đồ phổ biến nhất, đạt hiệu quả cao, đơn giản, sẵn có và chi phí hợp lý và có thể diệt trừ được H.pylori trong hơn 90% trường hợp. Trong trường hợp ổ loét tái phát nhiều lần, có nhiều ổ loét hoặc ổ loét to hoặc trường hợp không đáp ứng với phác đồ 3 thuốc thì phải dùng phác đồ 4 thuốc gồm thuốc ức chế bơm proton, muối bismuth và 2 kháng sinh.
Như vậy, tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh mà bác sĩ sẽ lựa chọn thuốc dùng hoặc phối hợp thuốc phù hợp. Liều lượng và thời gian dùng thuốc cũng tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, người bệnh cần tuân thủ y lệnh chỉ định của bác sĩ.