Hen phế quản là bệnh lý hô hấp rất phổ biến, đặc biệt trong thời tiết giao mùa thì tỉ lệ phát các cơn hen cấp lại càng tăng. Hiện nay đã có khá nhiều thuốc được dùng điều trị cắt cơn hen cấp và thuốc kiểm soát dự phòng cơn hen. Trong bài này xin giới thiệu một số thuốc cắt cơn, thuốc dự phòng chính hiện nay cũng như những lưu ý khi sử dụng các thuốc này.
Chống co thắt phế quản
Thuốc hay dùng và hiệu quả nhất trong điều trị cắt cơn hen là các thuốc nhóm kích thích ß2 adrenergic (còn gọi là thuốc chủ vận ß2). Cơ chế tác dụng của các thuốc trong nhóm này là thuốc gắn với thụ cảm thể ß2 ở màng tế bào cơ trơn phế quản làm hoạt hoá men Adenyl cyclase dẫn đến tăng nồng độ AMP vòng và hoạt hoá protein kinase A làm tăng canxi tự do nội bào cuối cùng có tác dụng giãn cơ trơn phế quản. Các thuốc nhóm này lại được chia thành 2 nhóm là thuốc tác dụng ngắn và thuốc tác dụng kéo dài.
Bệnh hen là bệnh lý hô hấp rất phổ biến.
Thuốc tác dụng ngắn bao gồm salbutamol, terbutalin, fenoterol, thuốc có tác dụng ngay sau khi dùng và thời gian tác dụng kéo dài từ 4 - 6 giờ.
Thuốc tác dụng kéo dài khoảng 12 giờ bao gồm salmeterol, formoterol. Tốt nhất là dùng thuốc cắt cơn hen bằng thuốc nhóm này dưới dạng hộp có liều định chuẩn (MDI) để xịt họng khi có cơn khó thở hoặc dạng ống khí dung ngày 3-6 lần.
Dự phòng cơn hen về đêm nên dùng salbutamol tác dụng kéo dài hoặc salmeterol.
Tác dụng không mong muốn và thận trọng khi dùng nhóm thuốc này bao gồm các triệu chứng đánh trống ngực, nhịp tim nhanh, run nhẹ (đặc biệt ở đầu ngón tay). Hiếm gặp các triệu chứng khác như nhức đầu, mất ngủ, giãn mạch ngoại biên, loạn nhịp tim, hạ kali máu, tăng glucose và acid béo tự do trong máu, phản ứng quá mẫn. Dùng đường khí dung có thể gây co thắt phế quản. Dùng nhiều lần sẽ có hiện tượng quen thuốc, bệnh nhân có xu hướng phải tăng liều. Đối với bệnh nhân cường giáp, bệnh tim mạch, tăng huyết áp, loạn nhịp tim, đái tháo đường, đang điều trị bằng MAOI thì phải hết sức thận trọng khi dùng.
Thuốc nhóm methylxanthin: do có một số tác dụng phụ và tác dụng giãn phế quản kém hơn thuốc nhóm kích thích ß2 adrenergic, hiện nay ít dùng trong điều trị hen phế quản so với trước đây. Các dạng thuốc nhóm này hiện nay có trên thị trường thuốc: theophylin, synthophylin. Cơ chế chung của thuốc nhóm này là ức chế men photphodiestease làm tăng AMPc, chống viêm, ức chế thụ cảm thể Adrenosin A1, A2, A3 làm giảm giải phóng các trung gian hoá học như: histamin, leucotrien.
Hiện nay, theophylin uống giải phóng nhanh ít được dùng trong điều trị hen, chủ yếu dùng theophylin giải phóng chậm, duy trì đủ nồng độ thuốc trong máu trong 12 giờ để điều trị dự phòng và kiểm soát hen về đêm. Trong cơn hen nặng, theophylin được dùng phối hợp với các thuốc cường β2 hoặc corticoid để làm tăng tác dụng giãn phế quản, nhưng lại có thể làm tăng tác dụng không mong muốn của thuốc cường β2 (hạ kali máu).
Theophylin có thể dùng đường tiêm là aminophylin, hỗn hợp của theophylin và ethylendiamin, tan trong nước gấp 20 lần so với theophylin đơn độc. Trong điều trị cơn hen nặng, tiêm tĩnh mạch aminophylin rất chậm (ít nhất trong 20 phút).
Tác dụng không mong muốn
Thường gặp nhịp tim nhanh, tình trạng kích thích, bồn chồn, buồn nôn, nôn. Ít gặp: kích ứng đường tiêu hóa, đau đầu, chóng mặt, mất ngủ, run, co giật, loạn nhịp tim, hạ huyết áp, phản ứng dị ứng.
Với bệnh nhân quá mẫn cảm với thuốc, bệnh nhân bị loét dạ dày - tá tràng tiến triển, rối loạn chuyển hóa porphyrin, động kinh không kiểm soát được thì không được sử dụng nhóm thuốc này. Bệnh nhân có bệnh tim, tăng huyết áp, cường giáp, tiền sử loét dạ dày - tá tràng, suy gan, động kinh, có thai và cho con bú, người cao tuổi, đang bị sốt, dùng cùng các thuốc ức chế enzym chuyển hóa thuốc ở gan phải thận trọng và được bác sĩ theo dõi trong quá trình sử dụng.
Thuốc nhóm kháng cholinergic: có tác dụng giãn cơ trơn do ức chế thụ cảm thể muscarinic ở cơ trơn phế quản, ức chế phó giao cảm, tác dụng cắt cơn hen kém hiệu quả hơn so với nhóm kích thích ß2, tác dụng chậm hơn nhưng kéo dài hơn. Thuốc thường dùng là ipraptopium bromide hoặc dùng dạng phối hợp với fenotenol khí dung hoặc dùng dạng xịt họng.
Các thuốc chống viêm
Corticosteroid: cơ chế ức chế phản ứng viêm trong hen, hiện nay coi là thuốc chính trong điều trị hen phế quản. Tuy vậy, trong điều trị hen hay dùng các thuốc tác dụng tại chỗ vì dùng đường toàn thân (đường uống hay đường tiêm) có nhiều tác dụng phụ nguy hại đặc biệt khi dùng kéo dài. Các thuốc hay dùng là prednisolon, methyl prednisolon dùng đường tiêm trong cơn hen cấp tính nặng. Khi đã cắt cơn dùng thay nhanh bằng đường uống hoặc corticosteroide tại chỗ dùng dạng xịt hít hoặc khí dung.
Hiện nay, xu hướng hay dùng dạng thuốc phối hợp giữa corticoide tại chỗ với một thuốc kích thích ß2 adrenergic tác dụng kéo dài như ống hít symbicort (formoterol với budesonide) hoặc hộp xịt seretide (salmeterol với fluticasone) để kiểm soát hen, nếu bệnh nhân tuân thủ điều trị, kết quả kiểm soát hen rất tốt.
Tuy nhiên, khi bệnh nhân có các triệu chứng hô hấp nghi ngờ bị bệnh hen phế quản thì cần đến các cơ sở chuyên khoa hô hấp để được bác sĩ chẩn đoán bệnh, đánh giá mức độ nặng của bệnh, tư vấn cách điều trị dự phòng cũng như cách dùng thuốc để kiểm soát bệnh một cách triệt để.
TS. Nguyễn Tiến