Để điều trị bệnh nhiễm vi nấm nói chung, kể cả bệnh nấm phát triển trong nội tạng hiện nay đã có những thuốc chữa rất hiệu quả. Trong số đó phải kể tới các thuốc kháng sinh chống nấm.
Trong nhiều công trình nghiên cứu kháng sinh chống nấm, người ta đã tìm ra một số loại kháng sinh khắc phục được những cản trở (của vi nấm gây bệnh) để tìm ra được thuốc kháng nấm đặc hiệu. Những kháng sinh này thấm qua được màng tế bào có vỏ chitin của nấm gây bệnh, để phát huy tác dụng điều trị.
Kháng sinh nystatin
Là kháng sinh kháng nấm được phân lập từ môi trường nuôi cấy Streptomyces noursei, dưới dạng bột màu vàng hoặc vàng nâu nhạt, dễ hút ẩm, ít tan trong nước, ít tan trong cồn. Nystatin có tới mấy chục biệt dược (tên thương mại) như: biofanal, candex, mycostatin, nystafungin, stamicin… dưới dạng viên nén hoặc bọc đường, dịch treo súc miệng, viên đặt hậu môn hoặc âm đạo, kem dùng ngoài, thuốc rửa, thuốc mỡ… Nystatin có nhiều tác động phối hợp kích thích nhu cầu sử dụng ôxy, làm giảm dự trữ đường và polyphosphat, làm mất kali và phospho, làm rối loạn thẩm thấu màng tế bào của nấm bệnh, phát huy tác dụng điều trị.
Mặc dù trong phòng thí nghiệm, nystatin có tác dụng với nhiều loại nấm, nhưng do chỉ có nystatin uống và điều trị tại chỗ, lại không hấp thu vào máu nên chỉ định chính của nystatin chủ yếu là điều trị nấm ở niêm mạc, nhất là do Candida albicans ở phổi, thực quản, ruột, dùng phối hợp với kháng sinh có hoạt phổ rộng trong thời gian khá dài. Với nhiễm Candida ở âm đạo, cần điều trị cả vợ và chồng (hoặc bạn tình) để tránh tái nhiễm. Dùng thuốc bôi, phải giữ gìn da và niêm mạc thật sạch để tránh lan rộng và tái nhiễm.
Môi trường nuôi cấy streptomyces tạo ra kháng sinh kháng nấm. |
Amphotericin B
Kháng sinh này được chiết xuất từ môi trường nuôi cấy chủng Streptomyces nodosus, có cấu trúc polyen. Cơ chế tác dụng tương tự nystatin. Amphotericin B có các biệt dược: ambisome, amphocydin, fungilin… với các dạng bào chế thuốc viên uống, viên đặt âm đạo, thuốc tiêm tĩnh mạch, thuốc mỡ, kem bôi…
Chỉ định điều trị của thuốc rất rộng trên hầu hết các loại nấm Candida, Hitoplasma, Cryptococcus, Aspergillus. Tiêm, truyền tĩnh mạch thường được dùng trong các nhiễm khuẩn huyết do Candida, nhiễm khuẩn phủ tạng sâu (ví dụ Aspergillus ở gan, phổi…) và nhiễm Cryptococcus neoformans ở não, màng não. Thời gian dùng phụ thuộc vào mức độ nhiễm nấm.
Griseofulvin
Là kháng sinh kháng nấm được phân lập từ môi trường nuôi cấy Penicillium griseofulvum, với các biệt dược: gricin, grisavin, greosin, fungivin, lamoryl… dưới dạng bào chế viên nén, dịch treo uống, thuốc mỡ. Griseofulvin có tác dụng ức chế tổng hợp acid nucleic và sự phân bào của nấm bệnh, chủ yếu là để điều trị nấm da, kẽ ngón chân tay, tóc, lông, móng (microsporum, trichophyton) bởi thuốc thâm nhập vào da rất tốt, vào keratin của lông, móng rất cao.
Nói chung, khi mắc bệnh do vi nấm gây ra cần phát hiện, khám tỉ mỉ và điều trị sớm, điều trị đúng và triệt để sẽ có hiệu quả rất tốt.
BS. Vũ Hướng Văn