Dùng thuốc chống đông trong rung nhĩ và cách phòng ngừa đột quỵ

02-07-2016 15:15 | Thông tin dược học
google news

SKĐS - Phòng ngừa đột quỵ là mục tiêu hàng đầu trong điều trị rung nhĩ. Việc sử dụng các thuốc chống đông đã được chứng minh làm giảm có ý nghĩa nguy cơ nhồi máu não.

Thuốc chống đông là gì?

Việc hình thành cục máu đông là một quá trình phức tạp được gọi là con đường đông máu do sự kết hợp của các protein tế bào giúp cơ thể ngăn chặn sự chảy máu. Các thuốc chống đông hay còn gọi là các thuốc làm loãng máu  ngăn chặn quá trình hình thành cục máu đông này.

Các loại thuốc chống đông

Có một số loại thuốc chống đông có thể lựa chọn cho bệnh nhân rung nhĩ. Mục đích sử dụng các thuốc chống đông này là tác động vào một hoặc nhiều khâu trong con đường đông máu để ngăn chặn hình thành các cục máu đông.

  • Thuốc kháng Vitamin K

Có nhiều loại protein trong quá trình đông máu được tổng hợp nhờ Vitamin K. Thuốc kháng Vitamin K (VKAs) sẽ ngăn chặn quá trình tổng hợp các loại protein đông máu này. Đây là nhóm thuốc có lịch sử lâu đời nhất trong các thuốc chống đông phòng ngừa đột quỵ do rung nhĩ, trong đó Warfarin (Coumadin) là thuốc kháng Vitamin K đầu tiên được phê duyệt năm 1954.

  • Thuốc ức chế trực tiếp Thrombin

Thrombin là một enzym trong quá trình hình thành cục máu đông. Bằng cách ức chế Thrombin, con đường đông máu bị ngăn chặn qua đó làm giảm nguy cơ hình thành cục máu đông. VD: Dabigatran (Pradaxa).

  • Thuốc ức chế yếu tố Xa

Yếu tố Xa là một enzym trong quá trình đông máu vì vậy việc ức chế yếu tố Xa sẽ ngăn chặn con đường đông máu. VD: Rivaroxaban (Xarelto) và Apixaban (Eliquis).

Hình ảnh tắc động mạch não giữa gây nhồi máu não ở bệnh nhân rung nhĩ

Lợi ích và nguy cơ

Việc sử dụng các thuốc chống đông đã được chứng minh làm giảm có ý nghĩa nguy cơ nhồi máu não. Tuy nhiên bên cạnh đó, các bệnh nhân dùng thuốc chống đông phải đối mặt với nguy cơ chảy máu tăng lên do các thuốc này ngăn chặn quá trình đông máu và hình thành cục máu đông. Bên cạnh đó mỗi loại thuốc chống đông đều có những lợi ích và nguy cơ khác nhau.

  • Thuốc kháng Vitamin K

Ưu điểm: Là nhóm thuốc đã được sử dụng lâu dài trên lâm sàng, do vậy phần lớn các bác sỹ đều có kinh nghiệm trong việc dùng thuốc kháng vitamin K. Trong trường hợp bệnh nhân cần phẫu thuật cấp cứu (VD: tai nạn giao thông) hoặc phẫu thuật theo chương trình có thể sử dụng các thuốc đối kháng để đưa quá trình đông máu của bệnh nhân về bình thường. Đặc biệt các thuốc kháng Vitamin K có lợi thế về mặt kinh tế với giá thành thấp nhất trong các loại thuốc chống đông.

Nhược điểm: Trong thực tế có rất nhiều loại rau xanh chứa nhiều vitamin K. Việc sử dụng các loại thực phẩm giàu vitamin K sẽ làm giảm hiệu quả của thuốc kháng vitamin K để phòng ngừa đột quỵ. Ngoài ra, một số thuốc khác cũng có sự tương tác làm giảm hiệu quả của thuốc kháng Vitamin K. Vì vậy, bệnh nhân uống thuốc kháng vitamin K phải kiểm tra đông máu định kỳ để chắc chắn đã đạt liều tránh quá liều chống đông. Xét nghiệm PT- INR cần duy trì từ 2-.0- 3.0. Nếu PT- INR thấp hơn 2, đồng nghĩa việc chống đông chưa đạt đích điều trị, bệnh nhân sẽ có nguy cơ bị đột quỵ. Ngược lại nếu PT- INR cao hơn 3, bệnh nhân sẽ đối mặt với nguy cơ chảy máu.

Điện tâm đồ của bệnh nhân rung nhĩ

  • Thuốc ức chế trực tiếp Thrombin

Ưu điểm: Thuốc ức chế trực tiếp Thrombin dễ sử dụng hơn trên lâm sàng, sự tương tác với các thuốc cũng như chế độ ăn ít hơn nhiều so với thuốc kháng Vitamin K. Bệnh nhân dùng thuốc ức chế trực tiếp Thrombin không phải đi kiểm tra máu định kỳ. Ngoài ra, thuốc ức chế trực tiếp Thrombin có nguy cơ gây xuất huyết não thấp hơn thuốc kháng Vitamin K.

Nhược điểm: Thuốc ức chế trực tiếp Thrombin chỉ có tác dụng phòng ngừa đột quỵ trong một khoảng thời gian nhất định vì vậy bệnh nhân phải uống thuốc đều, không được quên hoặc bỏ liều. Mặc dù nguy cơ gây xuất huyết não thấp hơn thuốc kháng Vitamin K nhưng các chế phẩm ức chế trực tiếp Thrombin vẫn làm tăng nguy cơ xuất huyết đường tiêu hóa như xuất huyết dạ dày, ruột.

  • Thuốc ức chế yếu tố Xa

Ưu điểm: Thuốc ức chế trực tiếp yếu tố Xa dễ sử dụng hơn thuốc kháng Vitamin K. Tương tự như thuốc ức chế trực tiếp Thrombin, thuốc ức chế trực tiếp yếu tố Xa cũng ít bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn, tương tác thuốc- thuốc và không cần kiểm tra xét nghiệm máu định kỳ. Ngoài ra, thuốc ức chế yếu tố Xa cũng có nguy cơ gây xuất huyết não thấp hơn thuốc kháng Vitamin K.

Nhược điểm: Vì là nhóm thuốc mới nên kinh nghiệm sử dụng thuốc ức chế yếu tố Xa còn hạn chế trong các tình huống cấp cứu. Hiện tại các thuốc đối kháng với thuốc ức chế yếu tố Xa chưa được phê duyệt. Cũng giống như thuốc ức chế trực tiếp Thrombin, thuốc ức chế yếu tố Xa có tác dụng phòng ngừa đột quỵ trong một khoảng thời gian nhất định vì vậy bệnh nhân cần tuân thủ điều trị đúng theo sự chỉ định của bác sĩ, không được quên liều.

Quyết định lựa chọn điều trị

Phòng ngừa đột quỵ là mục tiêu hàng đầu trong điều trị rung nhĩ. Bệnh nhân nên trao đổi với nhà điện sinh lý học ( các bác sỹ chuyên ngành rối loạn nhịp tim), bác sỹ tim mạch và bác sỹ chăm sóc sức khỏe ban đầu về nguy cơ đột quỵ. Nếu cần thiết phải sử dụng thuốc chống đông, bệnh nhân nên thảo luận cùng bác sỹ để hiểu rõ về lợi ích cũng như nguy cơ của các loại thuốc chống đông để qua đó quyết định lựa chọn thuốc điều trị tốt nhất cho mình.

TS.BSCC. Phạm Quốc Khánh Viện phó Viện Tim mạch Quốc gia

Chủ tịch Phân Hội nhịp Tim Việt Nam


TS.BSCC. Phạm Quốc Khánh Viện phó Viện Tim mạch Quốc gia - Chủ tịch Phân Hội nhịp Tim Việt Nam
Ý kiến của bạn