Nhiễm khuẩn tiết niệu khi mang thai (NKNMT) nguy hại cho bà mẹ (gây tăng huyết áp - tiền sản giật, thiếu máu, viêm ối, có thể sinh non, bị choáng nhiễm khuẩn), nguy hại cho thai (làm thai chậm phát triển, trẻ sinh ra thiếu cân và có thể bị sinh non), do vậy, người bệnh cần được điều trị tích cực.
Trong NKNMT, vi khuẩn chính là Escherichia Coli (chiếm 80%), tiếp đến là các khuẩn Gram dương (StreptococcusB Staphylococcussaprophiticus), Gram âm (Proteus mirabilis, Klessiela pneumoniae), rất hiếm gặp các chủng Enterococci, gardenerelllla vaginalis.
Tùy theo trường hợp NKNMT mà chọn thuốc, liều dùng, thời gian dùng phù hợp.
Trường hợp NKNMT không có triệu chứng (không có biểu hiện lâm sàng): Khoảng 10% người mang thai gặp trường hợp này. Vì thế, ngay từ lần khám thai đầu tiên phải bắt buộc cấy nước tiểu (và sau đó từ tuần thứ 12-16 thai kỳ phải lặp lại) để tìm vi khuẩn. Đa số người mang thai khám ở tuyến dưới thường không làm động tác này, nên bỏ sót. Nếu không điều trị sẽ dẫn đến viêm bàng quang cấp (30%) hay viêm đài- bể thận cấp ( 50%). Ngoài ra cũng có thể đưa đến tình trạng thai chậm phát triển, trẻ sinh ra thiếu cân.
Khi tìm thấy vi khuẩn, phải điều trị bằng kháng sinh cho đến lúc hết nhiễm khuẩn. Kháng sinh thường dùng là ampicilin, erythromycin. Trường hợp vi khuẩn kháng thuốc (khoảng 30% E. Coli kháng thuốc ) thì dùng amoxicilin acid clavulanic hay cephalexin hay nitrofurantoin. Thường dùng nhất là ampicilin.
Một số kháng sinh được khuyến cáo không nên dùng vì những tác dụng không mong muốn của thuốc gây nên như tetracyclin vì gây hại xương và mầm răng của thai (từ tháng thứ tư), gây dị tật ở ngón chân ngón tay; fluoroquinolon gây thoái hóa sụn khớp chịu lực và chưa có đầy đủ thông tin trên thai; bactrim (trimethoprim sulfamethoxazol) với người mang thai sẽ gây tổn thương nặng đến công thức máu, gây thiếu máu nguyên hồng cầu khổng lồ, gây hoại tử - li giải tế bào thượng bì (ít gặp song nguy hiểm), có thể gây suy thận, suy gan nặng và tất cả những ảnh hưởng trên bà mẹ đều có ảnh hưởng không lợi cho thai (nhất là 3 tháng đầu thai kỳ), thậm chí có thể gây khuyết tật thai (do gây thiếu acid folic).
Trường hợp NKNMT gây viêm bàng quang cấp: Biểu hiện tiểu khó, tiểu nhiều lần nhưng không có sốt. Có khoảng 1,3% người mang thai gặp trường hợp này. Khác với viêm bàng quang ở người không mang thai chỉ dùng kháng sinh 3 ngày là có hiệu quả. Trong trường hợp người mang thai viêm bàng quang phải dùng kháng sinh tới 10 ngày (có thể do khi mang thai, vi khuẩn có điều kiện thuận lợị để phát triển trong khi cơ thể thì giảm sức đề kháng với vi khuẩn). Nếu điều trị ngắn ngày sẽ dễ bị tái phát.
Trường hợp NKNMT gây viêm đài - bể thận cấp: Biểu hiện sốt, lạnh run, nôn, đau hông, lưng, có hay không có rối loạn tiểu (tiểu nhiều lần, tiểu khó). Rất nguy hiểm, vì có thể dẫn đến sinh non, choáng nhiễm khuẩn. Có 2% người mang thai gặp trường hợp này và trong số mắc này có khoảng 23% bị tái phát. Không được điều trị tại nhà hay tuyến cơ sở mà cần được đưa ngay tới bệnh viện, điều trị sớm.
Kháng sinh thường dùng là dạng tiêm tĩnh mạch cefazolin hoặc gentamycin kết hợp với ampicilin hoặc ceftriaxon. Kháng sinh tiêm tĩnh mạch được dùng ngay từ khi có biểu hiện lâm sàng rõ mà không chờ kết quả xét nghiệm, dùng liên tục cho đến khi hết sốt. Trừ một số trường hợp đặc biệt, còn đa số người bệnh đáp ứng và có hiệu quả sau 24 - 48 giờ. Nếu trường hợp đặc biệt (bị kháng thuốc hay có dị dạng đường niệu) thì cần dùng các giải pháp phức tạp hơn, cần chuyển lên tuyến có đủ điều kiện. Sau khi khỏi có thể dùng cephalexin hoặc nitrofurantoin thêm một thời gian nữa để tránh tái phát.
Với trường hợp NKNMT không triệu chứng, cần chú ý đến việc thăm khám thai để khỏi bỏ sót. Với NKNMT có viêm bàng quang cấp hay viêm đài - bể thận cấp, cần xác định là trường hợp nặng, đưa đến đúng tuyến, điều trị sớm. Trong mọi trường hợp cần tránh dùng các kháng sinh có hại cho thai.
DS. Bùi Văn Uy