Nỗ lực của các nhà sưu tầm, nghiên cứu và quản lý văn hóa trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào việc làm sống lại và quảng bá những tinh hoa múa cổ truyền của Thăng Long - Hà Nội. Tuy nhiên, tại hội thảo được tổ chức mới đây với chủ đề "Phục hồi, phát triển múa cổ Thăng Long - Hà Nội", một số ý kiến cho rằng chúng ta đã làm "rơi rụng" khá nhiều "phần hồn" của các điệu múa này trong quá trình khôi phục và phát triển chúng.
Tín hiệu vui
Công trình "Phục hồi, phát triển múa cổ Thăng Long - Hà Nội" được Hội Nghệ sĩ múa Việt Nam triển khai thực hiện từ năm 2006. Đến nay, sau hàng loạt các chuyến đi điền dã, sưu tầm, nghiên cứu, chọn lọc và phục dựng tại nhiều địa điểm trên địa bàn Hà Nội, Hội đã khôi phục được 28 điệu múa cổ và tổ chức thành công 3 cuộc liên hoan lớn với sự tham gia của hàng trăm nghệ sĩ dân gian, thu hút được sự chú ý của đông đảo các tầng lớp nhân dân Thủ đô. Sắp tới đây, vào đúng dịp kỷ niệm Hà Nội tròn 1.000 năm tuổi, liên hoan múa cổ lần thứ 4 sẽ giới thiệu 10 điệu múa cổ được đánh giá là đặc sắc nhất như: Múa giảo long ở lễ hội làng Lệ Mật (Gia Lâm), múa lễ chữ ở hội làng Chử Xá, múa bài bông ở hội làng Phú Nhiêu, múa lục cúng trong lễ cúng chùa Quang Minh (Đống Đa)...
Múa bồng do hai vũ công nam đóng giả nữ diễn. Ảnh: Lê Kiên |
Còn đó nỗi lo…
Không phủ nhận rằng, nhờ có dự án này mà múa cổ Thăng Long đã được thổi một luồng sinh khí mới. Vốn là những điệu múa thường chỉ được trình diễn mỗi năm 1 - 2 lần trong các dịp lễ hội của làng xã; tại sân đình, sân chùa hay trên đường ngõ nhỏ hẹp, nay chúng được mang ra sân khấu, đưa lên quảng trường lớn, được đông đảo công chúng Thủ đô và các tỉnh thành lân cận biết đến. Theo NSND Chu Thúy Quỳnh, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ múa VN, những điệu múa này càng trở nên hấp dẫn hơn khi có thêm sự sắp đặt của bàn tay đạo diễn trên nền tảng những yếu tố dân gian. Bà cho rằng: "Chúng ta trọng cổ nhưng không nệ cổ. Cần phải đặt múa cổ trong sự vận động từ thế hệ này qua thế hệ khác. Mỗi thế hệ đều có sự vận dụng, biến đổi nó cho phù hợp với thế hệ mình. Ví dụ như sự vận động từ điệu chầu văn trong tín ngưỡng cổ xưa đến hát chầu văn phục vụ cho quan viên ngày trước, rồi hình thức chầu văn lưu lại sử dụng cho khán giả hôm nay. Trong xã hội mới, không gian mới, cách thức diễn phải theo thẩm mĩ mới".
Thế nhưng, ở một góc nhìn khác, ông Phạm Hùng Thoan (Hội Nghệ sĩ múa HN) lại cho rằng: Việc sân khấu hóa, đạo diễn hóa, nghệ sĩ hóa các điệu múa cổ có thể đã tạo được ấn tượng nhất định đối với công chúng. Thế nhưng đó mới chỉ là những ấn tượng về hình thức chứ không phải là toàn bộ phẩm chất nghệ thuật của múa cổ Hà Nội, vốn chỉ có thể bộc lộ khi được biểu diễn trong môi trường sinh hoạt văn hóa truyền thống. "Bởi vì trong di sản múa cổ Hà Nội rất ít tác phẩm có khả năng tồn tại độc lập và thích ứng dễ dàng với không gian sân khấu - thạc sĩ Phạm Hùng Thoan lý giải - Đa phần chúng được thiết kế để đáp ứng nhu cầu cụ thể của lễ hội làng, lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo. Việc tách múa khỏi môi trường tồn tại truyền thống của chúng thường là lợi bất cập hại dù những nỗ lực sưu tầm và trình diễn múa cổ là rất đáng trân trọng".
Thạc sĩ Phạm Hùng Thoan cũng bày tỏ lo ngại về những "sáng tạo, chỉnh biên cho phù hợp với cuộc sống mới" đang khiến giá trị của một số điệu múa cổ bị biến dạng một cách đáng tiếc. Như với điệu múa Bồng của làng Triều Khúc. Để thêm sôi nổi, người ta tăng số vũ công từ 2 người lên thành 4. Không những thế, để xóa dấu vết của tệ "coi thường phụ nữ", tạo điều kiện cho chị em được hưởng quyền bình đẳng với nam giới, các "con đĩ đánh bồng" do nam giả nữ đã được thay bằng 4 nữ diễn viên. Hai lần chỉnh sửa này khiến giá trị của điệu múa gần như biến mất. Từ điệu múa biểu trưng cho trời, đất và lòng người hân hoan, khi Phùng Hưng lên ngôi Bố Cái Đại Vương, múa Bồng đã biến thành vũ điệu biểu cảm thuần túy.
Phó Chủ tịch Hội Nghệ sĩ múa Hà Nội Lê Thị Hồng Thắng cũng có chung quan điểm. Bà cho rằng không thể tách múa cổ ra khỏi môi trường sinh ra nó là không gian văn hóa, lễ hội làng quê. Muốn phát triển múa cổ, trước hết phải đặt các điệu múa này trở lại cái nơi hay loại hình hoạt động văn hóa đã sinh ra nó, sau đó mới có thể di chuyển sang những hình thức sinh hoạt khác như biểu diễn trên sân khấu chuyên nghiệp, biểu diễn kết hợp trong các chương trình ca nhạc... nhưng cũng chỉ là "thử xem" thôi. Sự dịch chuyển múa cổ sang môi trường khác, nếu không thận trọng sẽ biến điệu múa thành một sản phẩm "vô tính", có xác mà không có hồn!
Đồng ý là sau khi phục dựng múa cổ, chúng ta sẽ phải tính đến việc phát huy và phát triển vốn cổ quý báu này. Thế nhưng phát huy, phát triển theo cách nào để có thể bảo tồn được cả hồn lẫn xác của múa cổ? Rõ ràng, con đường phía trước còn lắm gian truân!
Liên Nhi