Việt Nam đang đối mặt với tình trạng dân số già và tỷ lệ sinh thấp – đây là thực trạng đáng “báo động”. Mức sinh trên toàn quốc đang có xu hướng giảm thấp dưới mức sinh thay thế, từ 2,11 con/phụ nữ ( năm 2021) xuống 1,91 con/phụ nữ ( năm 2024). Đây là mức sinh thấp nhất trong lịch sử và được dự báo là sẽ tiếp tục xuống thấp trong các năm tiếp theo.
Dự báo, đến năm 2039 Việt Nam sẽ kết thúc thời kỳ dân số vàng, năm 2042 quy mô dân số trong độ tuổi lao động đạt đỉnh và sau năm 2054 dân số sẽ bắt đầu tăng trưởng âm.
Giảm tình trạng mang thai ngoài ý muốn – giảm nạo phá thai
Hiện nay, việc chăm sóc sức khỏe người phụ nữ nói chung và sức khỏe sinh sản cho phụ nữ nói riêng không đồng đều giữa các vùng miền, các địa phương. Tình trạng mang thai ngoài ý muốn rất cao tại Việt Nam.

Tư vấn chăm sóc sức khỏe cho học sinh, trong đó có chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Theo Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, mỗi năm cả nước có gần 300.000 ca nạo hút thai, trong đó, 20-30% ca phá thai là phụ nữ chưa kết hôn. Ở nhóm vị thành niên (từ 15–19 tuổi), phá thai chiếm khoảng 30% tổng số ca, trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên.
Việt Nam nằm trong nhóm 3 quốc gia có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới, với khoảng 25% phụ nữ chưa kết hôn từng phá thai và 20% trong số đó là vị thành niên.
Việc phá thai không an toàn có thể dẫn tới chảy máu, nhiễm trùng, sót nhau, thủng tử cung, vô sinh, thậm chí tử vong. Bác sĩ Phạm Quang Nhật, Phó trưởng khoa Kế hoạch gia đình, Bệnh viện Từ Dũ cho biết, đã có những trường hợp đau lòng xảy ra khi trẻ em vị thành niên, thậm chí cả người lớn cũng có thể mua thuốc phá thai trên mạng và dẫn đến biến chứng nặng như vỡ tử cung.
Tại Bệnh viện Từ Dũ, năm 2023 đã ghi nhận hơn 600 ca phá thai. Đến năm 2024, con số này đã lên đến 1.410 ca - tăng 113% so với cùng kỳ năm trước.
Các quy định trong Dự thảo Luật Dân số hướng đến cải thiện sức khỏe sinh sản cho phụ nữ
Dự thảo Luật Dân số gồm 7 Chương, 21 Điều, tập trung về các nội dung quan trọng như các biện pháp duy trì mức sinh thay thế, đặc biệt lồng ghép nội dung nâng cao vai trò phụ nữ, xóa bỏ định kiến giới vào các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.
Một số thay đổi đáng chú ý như ưu đãi về chế độ nghỉ thai sản, nghỉ thêm 01 tháng ngoài thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, nghỉ thêm 05 ngày làm việc ngoài thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi vợ sinh con. Ưu đãi về tài chính, chi hỗ trợ bằng tiền mặt hoặc hiện vật khi phụ nữ sinh con, sinh đủ 02 con và sinh đủ 02 con trước 35 tuổi; chi hỗ trợ sinh hoạt phí; mua hoặc thuê nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở. Hỗ trợ chi phí ăn đối với trẻ em học mầm non.

Tư vấn sức khỏe sinh sản cho thanh niên.
Quản lý chặt chẽ dịch vụ phá thai, hướng tới giảm tỷ lệ phá thai và phá thai không an toàn, đồng thời nâng cao chất lượng sức khỏe phụ nữ và chất lượng dân số. Mục tiêu là đến năm 2030, giảm 2/3 số vị thành niên, thanh niên có thai ngoài ý muốn.
Dự thảo còn thúc đẩy tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản (SKSS) bao gồm tránh thai, khám tiền hôn nhân, sàng lọc trước và sau sinh. Điều này đặc biệt cần thiết để tránh mang thai ngoài ý muốn và giảm nạo phá thai không an toàn.
Dự thảo lần này còn thúc đẩy bình đẳng giới, giảm áp lực “phải sinh con trai”, từ đó bảo vệ quyền và sức khỏe tinh thần của phụ nữ, đảm bảo cho phụ nữ vùng sâu, vùng xa tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, nhất là dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản.
Hiệu ứng tích cực của Dự thảo Luật Dân số
Việc tăng cường tiếp cận biện pháp tránh thai hiện đại, giáo dục giới tính, phòng tránh mang thai ngoài ý muốn sẽ trực tiếp góp phần giảm số ca phá thai – đặc biệt là ở nhóm vị thành niên – từ đó giảm các biến chứng về mặt y khoa và tâm lý.
Nạo phá thai không an toàn có thể gây vô sinh thứ phát, dính buồng tử cung, tắc vòi trứng… Trong khi đó tỷ lệ vô sinh ở nhóm từng trải qua nạo phá thai cao gấp 3–4 lần.
Theo ThS. Nguyễn Hoài Sơn, Viện Xã hội học và Tâm lý học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Các biện pháp duy trì mức sinh thay thế chủ yếu được quy định tại Điều 11 trong dự thảo Luật, đáng chú ý như yêu cầu Chính phủ định kỳ công bố tình trạng mức sinh, hỗ trợ tài chính, kéo dài thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai, cho phép phụ nữ sinh đủ hai con được hưởng chính sách về hỗ trợ nhà ở xã hội cũng như quy định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp cho nam nữ trước khi kết hôn các kiến thức về sức khoẻ sinh sản, chăm sóc và nuôi dạy con, củng cố giá trị mỗi gia đình hai con,…
Như vậy, Dự thảo Luật Dân số đặt quyền và sức khỏe phụ nữ ở vị trí trung tâm trong chính sách dân số quốc gia. Nếu được ban hành và thực thi hiệu quả, Luật sẽ giúp giảm tình trạng mang thai ngoài ý muốn, nạo phá thai không an toàn, nâng cao chất lượng sinh sản của phụ nữ, giảm biến chứng y khoa và tâm lý, thúc đẩy bình đẳng giới và quyền sinh sản, cũng như bảo vệ quyền lợi của nhóm vị thành niên – nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất.
Nhiều chuyên gia, học giả kỳ vọng Dự thảo Luật Dân số sẽ trở thành hành lang pháp lý bảo vệ sức khỏe, quyền lợi và hạnh phúc của phụ nữ Việt Nam. Nếu luật được thông qua và triển khai hiệu quả, đây sẽ là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một xã hội công bằng hơn về giới, đồng thời nâng cao chất lượng dân số trong tương lai.