“Dư âm” bao nỗi đường dài

03-01-2012 08:07 | Văn hóa – Giải trí
google news

Đó là một câu chuyện dài với ca khúc Dư âm ông viết vào năm 1950 khi đang làm Trưởng đoàn Văn công, Sư đoàn 304. Ngạn ngữ cổ “Tình chị duyên em” xưa đã xảy ra với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, khi ông được người bạn giới thiệu để tìm hiểu một người con gái ở Thanh Chương, cùng quê lúc ấy.

Sự nghiệp của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý được tôn vinh bởi Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (năm 2000), với chùm ca khúc rất nổi tiếng:Mẹ yêu con, Vượt trùng dương, Bài ca năm tấn, Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa,Một khúc tâm tình của người Hà TĩnhDáng đứng Bến Tre. Nhưng cùng với đó lại là những “dư âm” của một thời vang bóng và những hệ lụy gắn bó cho đến tận những năm tháng cam go nhất trong cuộc đời nghệ sĩ lãng mạn và tài hoa này.

Giờ đây, một ngày của ông được tính từ 1 giờ đêm, vì ông luôn thao thức không thể ngủ nổi. Ông đếm từng canh giờ, lắng nghe những chuyển động trong tâm hồn mình với bao ký ức tràn về...

Thuyền tình không tới bến và hậu “Dư âm”

Đó là một câu chuyện dài với ca khúcDư âm ông viết vào năm 1950 khi đang làm Trưởng đoàn Văn công, Sư đoàn 304. Ngạn ngữ cổ “Tình chị duyên em” xưa đã xảy ra với nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, khi ông được người bạn giới thiệu để tìm hiểu một người con gái ở Thanh Chương, cùng quê lúc ấy.

 Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý.

Sau khi người vợ đầu tiên yểu mệnh từ năm 1947, cũng đã đến ba năm trời nuôi nấng con nhỏ, nên việc người bạn giúp tìm bạn mới làm nhạc sĩ trẻ Nguyễn Văn Tý háo hức lắm. Nhưng cái duyên cái số mới lạ lùng và trêu ngươi. Chưa bén tình với cô chị, thì cô em bất ngờ xuất hiện, với nụ cười hồn nhiên và đôi mắt long lanh hút hồn người nhạc sĩ. Khi người chị đuổi cô em ra khỏi câu chuyện của mình thì cũng là lúc tình yêu của nhạc sĩ, cho dù mơ hồ với cô em lại nồng cháy. Ngược lại cô em cũng vậy, như sự đồng vọng của thần giao cách cảm, cũng không ngủ được. Nàng hong tóc ngoài hiên và ôm đàn hát bâng quơ trong nỗi niềm mơ mộng trong đêm. Nhạc sĩ ngơ ngẩn vì tiếng tơ lòng ngân nga. Cảm xúc trào dâng, ngay giữa đêm đó, một câu nhạc chợt vang lên, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã quây cót che bớt ánh sáng của đèn dầu và ghi lại những nốt nhạc trên cái nong kê nghiêng. Ông ôm cây ghi-ta và thầm hát lên những lời đầu tiên về tình yêu trong mộng ước: “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn, dìu muôn tiếng tơ…”. Đó là linh cảm của vị ngọt tình yêu không tới. Bởi lẽ sau đó là sự cấm đoán chia xa.

Tuy tình chẳng tới, nhưng Dư âm đã làm nổi danh cái tên Nguyễn Văn Tý từ đó, đặc biệt từ khi bài hát này được lồng trong phim Kiếp hoa, chiếu ở vùng địch tạm chiếm. Mặc cho Dư âm bị cấm trong vùng kháng chiến, nhưng trong những ngày tháng ấy, nó vẫn được phổ cập sâu rộng trong đời sống và nhất là tầng lớp tiểu tư sản và học sinh sinh viên. Nhưng rủi thay, khi trong một cuộc chỉnh huấn bất ngờ, Dư âm là một hệ lụy khó lường.

Đây là sự kiện làm nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý choáng váng, bởi nó xảy ra sau lễ thành hôn của ông với ca sĩ Bạch Lê, em gái nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Niềm vui chưa kịp thoả thì một không khí u ám bao trùm với những câu hỏi dồn ép: Vì sao bài hát Dư âm lại được đưa ra vùng bị địch tạm chiếm; nhạc sĩ đã nhận gì của kẻ địch?...

Một thời gian sau, lãnh đạo cấp trên cũng thông qua bản kiểm điểm thành khẩn của nhạc sĩ và không có bằng cớ để xử lý kỷ luật.  

Sự dấn thân ngọt ngào

Quả là án treo “Dư âm” kia dai dẳng đến mức là nguyên cớ ngầm cho cuộc chỉnh huấn lần thứ hai, khi có chuyện đồn thổi tác giả Dư âm là thành viên của Nhân văn giai phẩm. Nhạc sĩ đã thanh minh không biết bao lần về cái chuyện có tên ông trong ban biên tập nội dung tạp chí của nhóm này là do nhà thơ Đặng Đình Hưng vì yêu mến nhau từ trước, tự đưa vào mà không cho ông biết thôi.

Ai cũng rõ rằng sau Dư âm, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã có giải thưởng cao nhất, với ca khúc Vượt trùng dương, vào năm 1952 và thêm một lần nổi lên với ca khúc Mẹ yêu con (viết năm 1956), qua giọng hát của Khánh Vân và Thanh Huyền, được phát liên tiếp trên Đài tiếng nói Việt Nam. Nhưng tình ngay ý gian, thật khó giải thích, ông tự nguyện rút ra khỏi Ban Chấp hành Hội Nhạc sĩ khoá I. Sau đó đã có những kết luận của cấp trên về chuyện oan trái này, nhưng ông vẫn nằm trong diện phải được chỉnh đốn bằng chuyến đi thực tế, lên Điện Biên 6 tháng liền, hồi 1958.

 Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý và vợ thuở mới yêu nhau năm 1952.

Lúc này bản lĩnh của người nghệ sĩ, chiến sĩ đã vực dậy một trạng thái tưởng như tuyệt vọng trong ông. Nhiều đêm, ông thường nhớ đến lời của người cha dặn khi còn nhỏ rằng, hãy nhẫn nhục làm lại từ đầu, khi nỗi tuyệt vọng đã phủ kín cuộc đời mình. Và ông đã bước đi một cách vững vàng, với sáng tác nổi bật: Tiếng hát bản Mèo, độc đáo và có tiếng vang xa, qua giọng hát Minh Đỗ.

Sau đó, ông may mắn có dịp đi thực tế tại Hưng Yên. Trong 5 năm trời, từ 1962 - 1967, ông đã lăn lộn với thực tế trên đồng ruộng, cho ra đời những ca khúc hay như: Bài ca năm tấn,Chim hót trên đồng đay,Tiễn anh lên đường,Múa hát mừng chiến công Người giỏi chăn nuôi.

Trở về Hà Nội, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý vẫn giữ phong độ sáng tác về quê hương rất sung sức với những ca khúc thấm đẫm chất dân ca, có sức truyền cảm sâu sắc. Chẳng ai có thể quên được những giai điệu ngọt ngào và rất ấn tượng của Em đi làm tín dụng (1971), Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa (1973) hay Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh (1974). Thời điểm này, ông nổi lên như một ngôi sao tiên phong trong việc sáng tác mang phong cách âm nhạc dân gian, với những đề tài mới.

Ông định cư ở TP. Hồ Chí Minh, từ năm 1976. Phong cách sáng tác của ông vẫn được phát huy triệt để qua những sáng tác về quê hương, đất nước, đến nỗi anh em đồng nghiệp còn gọi ông là người chuyên“tỉnh ca”, vì ông thường nhận lời viết theo đơn đặt hàng cho các tỉnh. Trong chùm bài hát viết về quê hương này ông có một số tác phẩm để đời. Đó là những ca khúc: Người đi xây hồ Kẻ Gỗ (1976), hay như Dáng đứng Bến Tre (1980), Về Thuận Hải (1984) và Hát về thành phố biển dầu (1984)…

Nốt trầm

Đôi lúc chợt nghĩ lại những tai nạn trải qua ông lại thầm cảm ơn số phận đã đẩy ông dấn thân vào còn đường sáng tạo vô cùng phong phú. Ông tự rèn luyện trên con đường nghệ thuật, thay đổi phong cách để khẳng định tài năng và chứng minh cho nỗi oan khuất của mình. Đó là sự dâng hiến cho sự nghiệp âm nhạc cách mạng. Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, mà ông được trao năm 2000 đã khẳng định tất cả.

Và giờ đây, sau mười năm cam chịu với bệnh tật và nỗi buồn chia xa, khi người vợ yêu quý của ông đã mất từ 2004, ông côi cút với tuổi 87 trong ngôi nhà nhỏ đơn sơ. Hằng đêm, ngắm nhìn ảnh vợ treo trên tường, ông đếm thời gian trong từng khoảnh khắc. Canh một. Canh hai. Canh ba… Bà vẫn mỉm cười nhìn ông như thuở nào. Những “dư âm” cuộc đời bỗng ngân vang trong tâm tưởng.

Vương Tâm


Ý kiến của bạn