Đau bụng sau khi sinh do huyết thiếu, khí nhược: Nguyên nhân là khi sinh sản phụ bị mất máu quá nhiều, hoặc trước khi sinh cơ thể vốn huyết hư, lại thêm khi sinh mất máu, thì bào mạch hư không (trống rỗng), huyết thiếu khí nhược, vận hành uể oải vô lực, máu chảy không thông thoát và chậm chạp, sinh ra đau bụng do hư trệ. Khi mắc chứng này, người bệnh có biểu hiện bụng dưới đau ngâm ngẩm, bụng mềm thích ấn, ác lộ (sản dịch) màu nhạt, lượng ít, đầu váng mắt hoa, tim đập hồi hộp thất thường, thắt lưng và mông sụt, trướng tức, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch tế nhược. Dùng các bài thuốc:
Bài 1: Đương quy 9g, thục địa 9g, nhân sâm 9g, mạch môn đông 9g, a giao 12g, sơn dược (hoài sơn) 12g, tục đoạn 9g, nhục quế 9g, cam thảo 6g, sắc lấy nước uống. Dùng 3 - 5 ngày.
Hoa kinh giới... |
Bài 2:Nhân sâm 6g, phục linh 12g, bạch truật 9g, đương quy 9g, xuyên khung 6g, bạch thược 9g, thục địa 9g, nhục quế 6g, hoàng kỳ 9g, cam thảo 3g, táo tàu 3 quả, sắc lấy nước uống. 5 ngày là một liệu trình.
Đau bụng sau khi sinh do huyết ứ: Trong tử cung người mẹ sau khi sinh xong có máu đọng, khi huyết ứ lưu trệ, bào cung co bóp bị trở ngại, ứ trở bào trung mà sinh đau. Khi mắc chứng này, người bệnh đau bụng không cho ấn vào, ác lộ không thông thoát, máu thâm có cục, hoặc ngực sườn trướng đau, lưỡi tím thâm, mạch huyền sáp hoặc tế sáp.
Phép trị: Hoạt huyết trừ ứ, thông lạc chỉ thống.
Bài 1: Đương quy 9g, xuyên khung 9g, đào nhân 9g, gừng rang 6g, cam thảo nướng 5g, ích mẫu thảo 9g, ngũ linh chi 9g, bồ hoàng 9g, sắc lấy nước uống. Dùng liên tục 3 - 5 ngày.
Bài 2: Đương quy 9g, xuyên khung 9g, đan bì 9g, hoa kinh giới đốt thành than 6g, ích mẫu thảo 12g, nhũ hương 9g, sơn tra rang cháy 9g, đào nhân 9g, sắc lấy nước uống. Dùng liên tục 3 - 5 ngày.
Đau bụng sau khi sinh do hàn ngưng đọng: Sau khi sinh huyết thất mở to ra, bào mạch trống rỗng, hàn tà nhân lúc cơ thể hư nhược mà xâm nhập vào, huyết đã bị hàn ngưng, trở trệ bào mạch mà sinh đau bụng.
Biểu hiện:Sau khi sinh, bụng dưới bị đau lạnh, không cho ấn vào, thỉnh thoảng có cảm giác như bị co rút, được ủ ấm thì đau giảm đi, ác lộ ra nhưng không thông thoát, sắc mặt tái xanh, chân tay không ấm, lưỡi nhạt thâm, rêu lưỡi trắng trơn bóng, mạch trầm trì hoặc huyền khẩn.
Phép trị:Ôn kinh tán hàn, hành trệ chỉ thống.
Bác sĩ Lê Hoài Nam