Dõi theo 'Hành trình nước'…

25-09-2025 09:11 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Sau Cõi bình yên (2012), Nẻo về (2023), Rồi mai mùa sẽ vui (2024), Hành trình nước là tập thơ thứ tư của Vũ Mai Phong được viết từ cuối năm 2024 vắt sang nửa đầu năm 2025.

Khoảng thời gian sáng tác tập thơ này, đất nước xuất hiện nhiều sự kiện chấn động: Cơn bão Yagi với sức tàn phá ghê gớm, quét qua miền Bắc; những thay đổi hiếm thấy trong cấu trúc thượng tầng xã hội gắn liền với công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; cuộc "cách mạng" tinh giản bộ máy được triển khai sâu rộng cùng với việc thay đổi địa giới hành chính… Những sự kiện chấn động đó dội vào con tim, khối óc vốn nhạy cảm của thi sĩ Vũ Mai Phong và được anh ghi lại bằng ngôn ngữ thơ ca.

Hành trình nước vừa là sự nối dài mạch cảm xúc tưởng như đã ổn định từ những tập thơ trước, đồng thời xuất hiện những nét mới lạ của một hồn thơ luôn trăn trở, nghĩ suy trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Không khó để nhận ra trong tập thơ này xu hướng ngày càng rộng mở của cảm xúc, sự trải nghiệm ngày một sâu sắc của tác giả trước cuộc sống.

Vẫn còn nguyên vẹn và ngày càng đậm sâu thêm tình yêu nơi cắt rốn chôn rau bắt nguồn thẳm sâu ý thức về nguồn cội:

Người quê tôi ngay thẳng

Chỉ có tấm chân tình

Da ngăm ngăm màu nắng

Tóc mặn mòi biển sông

(Tôi người quê lúa)

Trong trái tim nhà thơ là nỗi nhớ thương cha mẹ một đời lam lũ, kiệm cần, cùng nhau trải qua đói nghèo, chiến tranh dai dẳng. Là niềm thương yêu bà ngoại cùng những kỷ niệm thấm đẫm ân tình:

Trời thì tròn, mặt đất thì vuông

Lời ru i tờ, ngọt ngào như trái hồng trước bể

Tôi mơ từ cõi trên cao ấy

Trong sáng lung linh ngoại vẫn cười

(Nhớ ngoại)

Và còn đó cánh đồng hoa cúc dại gió trăng in dấu mối tình xưa trong những câu thơ thổn thức: Anh vẫn chờ em qua bao mùa hoa cúc dại/ Nơi ấy cánh đồng thuyền trăng đầy gió (Giữa đồng hoa cúc dại). Nhưng bây giờ, tâm hồn thi nhân vượt qua ranh giới lũy tre làng, mở rộng ra những chân trời khác. Bằng ngôn từ, nhà thơ vẽ nên bức tranh phiêu linh đầy thi vị một cặp vợ chồng H'mông sau phiên chợ vùng cao trên đường về bản làng, dường như men rượu đã lan từ người chồng sang người vợ, con ngựa và cả núi rừng: "Mặt trời vội xuống núi/ Người vắt mềm ngang lưng/ Ngựa phì phò díu vó/ Hơi men nghiêng cánh rừng" (Về bản H'mông).

Dõi theo 'Hành trình nước'…- Ảnh 1.

Tác giả Vũ Mai Phong

Vũ Mai Phong có nửa đời gắn bó với mảnh đất và người Hưng Yên, cách Thái Bình quê anh chỉ một dòng sông, bây giờ đã sáp nhập thành tỉnh lớn. Nhiều địa danh và nhân vật nổi tiếng của miền đất địa linh nhân kiệt đi vào thơ anh với biết bao ngưỡng mộ, tự hào (Đêm Phố Hiến, Chiều Giếng Dạ, Cửa Báo Đáp, Về Văn Giang, Về chùa Nôm, Cây đào Tô Hiệu trên quê hương Xuân Cầu, Văn Giang mùa Tết, Cảm hoài, Viếng đền Hồng Hà nữ sĩ, Đôi bờ quần sinh, Ngày mai Văn Giang). Có lẽ chưa mấy tác giả có nhiều thơ về mảnh đất này như Vũ Mai Phong. Những bài thơ, câu thơ gợi niềm bâng khuâng trước Phố Hiến trong chiều sâu lịch sử, văn hóa:

Tôi nghe phía Hồng giang

Gió rì rào Bãi Sậy

Mái chèo ai khua vậy?

Sóng vỗ bến Hoa Dương

(Cảm hoài)

Hay niềm vui trước sự đổi thay đầy phấn khích, kết quả của công cuộc đổi mới đất nước: "Trên cánh đồng phù hoa/ mọc lên một rừng cao ốc/ xứ sở cây xanh hoa trái bốn mùa" (Ngày mai Văn Giang). Anh say sưa kể về một Đại thủy nông Bắc- Hưng- Hải mang "dạt dào dòng sữa quý" từ sông Hồng tưới tắm khắp cánh đồng ba tỉnh; đem lại "hạnh phúc cho triệu dân cày" (Cửa Báo Đáp).

Thơ Phong đặc biệt đáng quý ở tấc lòng tôn kính, ngưỡng mộ những anh thư, hào kiệt của đất này. Bài "Viếng Hồng Hà nữ sĩ" chỉ có 7 khổ thơ mà đúc kết đầy đủ sự nghiệp, tài năng, phẩm hạnh của bà Đoàn Thị Điểm- một nữ sĩ Hưng Yên tài hoa. Nhìn nhánh đào được tách ra từ cây đào Tô Hiệu trồng ở nhà tù Sơn La, giờ hiện diện trên quê hương Xuân Cầu, nhà thơ khái quát lên cả cuộc đời chiến đấu, hi sinh oanh liệt của bậc tiền bối cách mạng. Bước chân ham xê dịch của thi sĩ dành trọn một đêm xuân để dừng lại bên hồ Bán Nguyệt lắng nghe, cảm nhận không khí, hơi thở của một miền quê với đền đài rêu phủ, nhịp sênh phách trống chầu, điệu hát văn đã có tự thuở nào, nghe thấu tiếng chuông chùa rơi xuống cõi lòng tĩnh lặng của mình - một người hằng tâm hướng về cõi Phật. Cảm động trước tình cảm mà Vũ Mai Phong đã dành cho quê hương Hưng Yên, tôi hòa chung niềm tin và hi vọng rồi đây Hưng Yên mới sẽ mở ra một không gian phát triển rộng lớn: "Đất nước ta thái bình/ Bừng ước vọng hưng yên/ Đô thị và công nghiệp/ Khí thế đà đi lên" (Thái Bình - Hưng Yên).

Dõi theo 'Hành trình nước'…- Ảnh 2.

Tập thơ Hành trình nước - một tác phẩm mới của nhà thơ Vũ Mai Phong.

Về sự mở rộng không gian cảm xúc của hồn thơ Vũ Mai Phong, tôi đặc biệt chú ý đến bài thơ Hành trình nước, được lấy làm tên chung cho cả tập. Đã có nhiều bài thơ, ca khúc hay về đất nước,vậy thì Vũ Mai Phong tìm một lối đi riêng, không lặp lại. Vẽ lại "hành trình nước" từ nơi cội nguồn đất Tổ, trải chặng dài qua suối, hồ, sông biển, cuối cùng "hồi quy" bằng trận mưa rửa đền trước ngày giỗ Tổ trên mảnh đất thiêng, bài thơ tạc nên dáng hình đất nước với vẻ đẹp hùng vĩ, bao la, chảy dài mà thống nhất, mà vững bền vì được liên kết bằng "sợi dây" nguồn cội. Các địa danh: Đất Tổ, Bạch Long Vĩ, Hoàng Sa, Trường Sa, Phú Quốc chạy suốt chiều dài đất nước dọc theo dáng hình cong cong chữ S, được tái hiện trong từng khổ thơ không còn là những cái tên khô khan mà thấm đượm xúc cảm tự hào, sáng lên ý chí khát vọng bảo vệ, gìn giữ của các thế hệ người dân nước Việt. Đặc biệt, mỗi địa danh ấy còn hội tụ sinh khí đất trời, được "bảo hộ" bằng các thế lực siêu nhiên (Thần - Phật) và mạch ngầm thiêng liêng "sông núi bao đời đồng vọng". Hành trình nước như một tuyên ngôn về chủ quyền bất khả xâm phạm của Tổ quốc, bằng hình thức thơ ẩn dụ với những hình ảnh sinh động, có sức khái quát cao. Bài thơ là kết quả của những suy ngẫm sâu xa về đất nước, đánh dấu sự kết hợp hòa quyện giữa cảm hứng trữ tình - công dân và trữ tình đời tư - thế sự trong hồn thơ Vũ Mai Phong.

Trong dòng mạch thơ Trữ tình- Thế sự, các nhà thơ tiền bối Tố Hữu, Chế Lan Viên là những bậc thầy về định hướng tư tưởng với những bài thơ mang tính dự báo, thời sự nóng hổi. "Huế tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Emêli con, Người con gái Việt Nam, Ba mươi năm đời ta có Đảng, các bài thơ Xuân" … của Tố Hữu; "Sao tháng Tám, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng" của Chế Lan Viên được viết ngay sau khi các sự kiện lịch sử vừa xảy ra. Thi liệu thời sự nóng hổi thôi thúc được nâng đỡ bởi cảm xúc về quê hương, đất nước và sự nghiệp đấu tranh chung của dân tộc, các bài thơ "thời sự" của các tác giả đó không khô khan mà chấn động lòng người. Yếu tố thời gian, sự kiện không những không ngăn cản suy ngẫm lắng sâu, mà trái lại, là chất xúc tác cho sự bừng nở đột xuất của tứ thơ và ý tưởng. Chúng tôi đã có lần khẳng định: "Thơ Phong mang tính thời sự rất cao, trước hết là đối với anh, sau là đối với xã hội." Làm thơ đối với anh, vừa hưng phấn vừa cần mẫn, khác nào ghi nhật ký bằng nghệ thuật. Anh phát hiện ra chất thơ từ "sự kiện" bình thường đến "sự kiện" lớn lao liên quan tới chuyển động của đất nước, của xã hội và thể chế. Đó có thể là những suy tư về thời gian, thiên nhiên, kiếp người bên tách cà phê một buổi sớm mai nào đó (Cà phê sáng), hay khi nhớ lại cử chỉ, lời nói thật thà, cảm động của bà ngoại một lần về thăm (Nhớ ngoại). Lớn lao hơn, chi phối cuộc sống của nhiều người là những sự kiện long trời lở đất: Cảnh vật tan hoang, đổ nát sau cơn bão Yagi trong (Mắt bão); cuộc cách mạng về thể chế đang diễn ra giống như cơn địa chấn chưa từng có, tác động tới toàn xã hội và nhiều cá thể, nhằm "sắp xếp lại giang sơn" (Gió mới), cảnh chia lìa tang tóc ở Làng Nủ (Lào Cai) trong thảm họa núi lở chôn lấp một làng xảy ra vào tháng 9 năm 2024 (Vô đề 3). Thơ thế sự của Phong mang đậm tinh thần nhập thế tích cực, không có những eo xèo nhân thế, chua chát hồ nghi. Những băn khoăn (nếu có) chỉ do anh chú tâm đến một đại cục tốt đẹp. Tâm thế vững vàng, lập trường quyết đoán đem đến một cái nhìn lạc quan trước thời cuộc như khi diễn tả sức hồi sinh kỳ diệu của hàng cây sau cơn bão lớn:

Chiều thu về lại giếng thiêng

Như đi giữa hai hàng đuốc

Bừng sáng rực lên chồi tía

Đường xưa xanh đã lần hồi

(Cảm xúc tháng Mười)

Hay niềm tin vào cuộc cách mạng thể chế, tinh gọn bộ máy đang diễn ra trong xã hội vì nó thuận với lòng dân:

Xoay giữa tâm bão này

Có kẻ cười, người khóc

Thuyền dâng trên ngọn sóng

Lòng dân giữ tay chèo

(Bão nổi)

Một ý nghĩ mạnh bạo khi xử lý chiếc ghế gãy qua "Tâm sự chiếc ghế gãy":

Táp lại hay là bỏ đi đây?

Tính toán băn khoăn một ý này

Chắp hai âu cũng là tinh giản

Ba chân kiềng vững, thế lại hay!

Dòng chú thích về thời điểm sáng tác (8/12/2024) cùng hình ảnh mô tả chiếc ghế gãy một chân bên lề đường cho ta liên tưởng đến một chuyện không hề nhỏ giữa cuộc đời…

Mở rộng biên độ cảm xúc và không gian thơ khiến cho thơ Vũ Mai Phong ngày càng rộng mở. Từ chân trời quê hương, thơ anh vươn ra không gian những miền đất khác và không gian đất nước. Cập nhật thời sự trong chiều sâu khiến thơ anh càng ngày càng gần hơn với nhịp thở đời sống, với vui buồn nhân thế. Đó là hai điểm chính làm nên giá trị nội dung, tư tưởng của tập thơ Hành trình nước. Tuy nhiên, thơ Phong không phải là thơ "chính trị". Chan hòa với cuộc sống, Phong chỉ ghi lại những gì hàng ngày dội vào khối óc và con tim đa cảm của anh. Nét riêng tư thầm kín với tình yêu và người yêu trong quá vãng, hay giấc mơ êm đềm đôi lần vương lại trong các bài thơ ngọt ngào khiến lòng ta thêm một lần cộng cảm, thức dậy kỷ niệm của chính mình: "Tơ lòng, Tiên ca, Giữa đồng hoa cúc dại, Vô đề 3, Mùa hoa chi nhài, Mùa loa kèn…". Những bài thơ đó đã đem lại cho tập thơ chất mơ màng, lãng mạn bên cạnh hiện thực đời sống đang "ngổn ngang trăm mối"

Tôi đã từng khẳng định thơ Vũ Mai Phong khá thành công trên các phương diện: Vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo các thể thơ truyền thống, đặc biệt là thơ lục bát; nghệ thuật tạo hình và tạo nhạc, đáp ứng yêu cầu căn bản của thơ. "Thơ là thơ nhưng cũng là họa, là nhạc, là chạm khắc theo cách riêng" (Sóng Hồng). Ở tập này, tôi muốn nói sâu hơn về nghệ thuật dùng từ của tác giả. Trong thơ Phong, từ ngữ phát huy giá trị thông qua phương thức chuyển nghĩa (tu từ so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, ngoa dụ, nói giảm, nói tránh, trùng điệp...) tạo nên xúc cảm dào dạt, lắng sâu trong tâm hồn người đọc. Sinh ra, lớn lên từ quê lúa, hòa nhập với đời sống cần lao của người nông dân, Phong học được cách nói ngắn gọn, đầy ấn tượng của bà con, cô bác, vận dụng vào thơ, đặt nó trong ngữ cảnh phù hợp, đem lại cho từ ngữ sức nặng tạo hình, gợi cảm riêng. Xin dẫn một số trường hợp tiêu biểu:

Lòng rêu từ độ vắng nhau

Sớm nay chạm mát hương cau đầu mùa

Trong màn hư ảnh người xưa

Có con nhện góa giăng tơ một mình

(Tơ lòng)

Mái tóc bồng bềnh em bỏ bùa tôi

Tôi bị trói bởi trăm ngàn sợi nhớ

Một ngày bão nổi phía không nhau

(Bùa em)

Nỗi cô đơn xa cách, niềm nhớ thương trong tình yêu vốn vô hình vô ảnh trở nên cụ thể, rõ ràng qua những hình ảnh có thể tri giác trực tiếp được. Hay đó là một thoáng chập chờn thiên nhiên tương giao lòng người: "Tháng tư dền dứ giao mùa/ Còn ta phấp phỏng như vừa mới quen" (Ban). Lời ai oán từ tấm lòng chinh phụ qua khúc ngâm của Hồng Hà nữ sĩ được thâu tóm gọn gàng: "Câu thơ rỏ những giọt buồn chiến chinh". Một cử chỉ mang tâm trạng của hai người lỡ dở ở kiếp này: "Mùa đông trong mắt em/ nét buồn dâng khóe lệ/ ngõ đêm dài hun hút/ run rẩy tìm tay nhau" (Thấy). Và, còn nữa, sự khuấy đảo của tự nhiên vượt ra ngoài thông lệ, đem lại bất ngờ: "Cơn gió thổi bay tháng chín/ Không còn nguyên vẹn mùa thu" (Cảm xúc tháng mười); "Cuồng phong như đã bẻ cong tháng mười" (Chiều Giếng Dạ)…

Dõi theo 'Hành trình nước'…- Ảnh 3.

Các tập thơ của nhà thơ Vũ Mai Phong đã in từ 2024 - 2025

Bài thơ "Nỗi niềm Chí Phèo" là một trong số những bài thơ hay nhất của tập Hành trình nước. Hóa thân sâu sắc vào nhân vật và chi tiết cốt truyện Chí Phèo của Nam Cao, Vũ Mai Phong đã khắc họa sinh động hành vi, suy nghĩ của Chí Phèo trong "đêm trăng vườn chuối". Khả năng dồi dào về ngôn ngữ bình dân, tác giả đã làm sống động bối cảnh, không gian và hình tượng Chí Phèo trong tình huống nhạy cảm. Ở đây, từ ngữ miêu tả, trần thuật nghiêm trang hoặc trần tục, sỗ sàng quá đều không ổn, sẽ làm mất đi sự sinh động hoặc gây hiệu ứng khó chịu về sự quá quắt. Ngòi bút Vũ Mai Phong đã đứng vững trước hai phía chông chênh đầy thử thách giống như giữ bước đi thăng bằng trên dây thép, hầu hết các từ ngữ, các câu đều rất đắt, không thể nào thay thế được.

Từ câu buột miệng của Chí Phèo trước tình huống gặp gỡ không hẹn trước: "Cái ngày Thị Nở đến thăm/ Ôi sồi! Say quá, mình nằm bờ ao", với hai chữ "ôi sồi" thoát ra từ cửa miệng một chàng say, gợi lên một bất ngờ. Nhưng ngay sau đó là sự tỉnh táo để nhận biết dấu hiệu tình người nơi người đàn bà thô kệch là Thị Nở: "Rõ là cái ngữ dở hơi/ Đang mơ rạch mặt lại mời mình ăn/ Cơ mà thấy nó ân cần/ Cứ toe toét thế/ muốn gần quá thôi." Chính cái tình người hiếm hoi trong bối cảnh làng Vũ Đại ngày ấy khiến Chí Phèo đi ngược lại với đánh giá của người đời về nhan sắc Thị Nở qua một ý nghĩ rất… Chí Phèo: "Cả làng chê nó vổ rơi/ Mình quan tâm đếch, kệ đời cái răng." Một cách gián tiếp, nhà thơ đánh giá Chí Phèo hơn hẳn những người ở làng Vũ Đại ở chỗ nhận ra những nét đẹp của tấm lòng Thị Nở, át đi khiếm khuyết về hình thức và biểu hiện "dở hơi" bên ngoài. Câu "Thân trai chay tịnh bao năm" nghe có vẻ vô lý, nhà thơ có lý khi biện hộ về quá khứ Chí Phèo lúc còn làm tá điền cho nhà Bá Kiến: Cái sự chung đụng này nọ với "mụ ba" chỉ là bất đắc dĩ, là bắt buộc. Đó chỉ là sự va chạm không mảy may cảm xúc, nói chi đến tình yêu! Ở chỗ tinh tế, mong manh này, ngòi bút Vũ Mai Phong trở nên sắc sảo lạ thường, nhất là khi anh hạ bút câu thơ với hàm ý so sánh: "Bữa nay mới thật bồi hồi/ Mẹ cha con Nở nằm phơi, rất tình". Cuộc "gặp gỡ" giữa hai con người khốn khổ, bị xã hội ghẻ lạnh, xua đuổi, cuộc ái ân tình cờ trên cơ sở tình thương giữa họ dưới ngòi bút nhân văn của tác giả trở thành cuộc hoan ái lứa đôi, có đất trời chứng giám, nguyên thủy mà hạnh phúc, có thể làm thay đổi một con người từ đó. Từ ngữ trong đoạn thơ diễn tả hành động, xúc cảm của nhân vật đến đây đạt đến độ thần tình:

Trên giăng dưới có cửa… đình (chữ đình thật dí dỏm)

Cái gì trăng trắng tênh hênh giữa giời

Phập phồng dải yếm buông lơi

Sao mà run thế,

Chí ơi...

Đừng mà...

Bài thơ xuất thần không chỉ từ một loạt từ ngữ đắt đỏ, diễn tả chính xác sự việc, tâm lý con người, mang đặc sắc của ngôn ngữ bình dân, gợi hình, gợi cảm mà còn bởi tấm lòng hiểu thấu nhân vật đến độ bao dung của thi sĩ Vũ Mai Phong. Tôi cứ ước ao được thưởng thức thật nhiều những bài thơ "lóe sáng" của Phong ở tầm mức này.

Tôi tin, bằng tình yêu sâu nặng với quê hương, thiên nhiên, non sông đất nước và cái duyên bền chặt với thực tại, thơ Phong sẽ ngày càng có sức lan tỏa rộng lớn, "từ chân trời của một người đến với chân trời của nhiều người".


Nhà văn Nguyễn Nguyên Tản
Hội Nhà văn Việt Nam
Ý kiến của bạn