![]() |
Tập thơ gồm 61 bài, hơn 90 trang, do NXB Hội Nhà văn ấn hành cách đây 2 năm. Qua tập thơ này của anh, tôi có cảm nhận là khẩu khí của người miền Trung rất rõ. Chỉ cần đọc 4 câu in ở bìa bốn của tập thơ đã thấy rất rõ điều ấy: “Tôi vẽ đời tôi lên sỏi đá/ Không khốc khô rát mặt gió Lào/ Em thương ạ, đời cứ như âm bản/ Ta không gặp kiếp này, gắng hẹn lại kiếp sau” (Chân dung - tr.11).
Thơ Nguyễn Hoài Nhơn đằm sâu về cảm xúc, giàu chất suy tư về kiếp người, cõi đời, về những điều dường như là muôn thuở vẫn “trơ cùng tuế nguyệt”, dù cho vật đổi, sao dời. “Mưa là lệ sót của trời/ Sông như lệ sót của thời bể dâu/ Ta là chẳng của ai đâu/ Phần người sót lại xưa, sau thế này...” (Lệ - tr.82). Hay “Đi đêm bạn đói ánh nhìn/ Tôi trương mắt ngó mà kinh hãi đời/ Bạn không sống thật cùng tôi/ Lời như mắm cáy đãi bôi nhạt phèo!...” (Tấc lòng - tr.12).
Qua những câu thơ trên, dù chưa gặp nhau bao giờ, ta cũng dễ dàng nhận ra một Nguyễn Hoài Nhơn từng trải, từng đau. Nhưng có lẽ cái quý nhất ở anh là còn biết “kinh hãi đời”. Nếu một ai đấy không còn biết kinh sợ điều gì thì chắc chắn là không thể nào làm được việc gì có ích cho đời nữa, như Khổng Tử đã từng dạy thế.
Quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước theo hướng CNH-HĐH, tốc độ đô thị hóa là điều khó tránh khỏi. Với gần một phần tư thế kỷ trôi qua, đã có hàng trăm bài thơ, hàng chục truyện ngắn, tiểu thuyết, bút ký, phóng sự... về đề tài này nhưng Nguyễn Hoài Nhơn có cách cảm nhận rất riêng về vấn đề này: “Bỏ xa xã lẻ u hoài/ Mặt trong đô thị, mặt ngoài ếch kêu/ Bước qua quá đội là liều/ Em non nõn trắng, em liêu xiêu hồng/ Kiếp người sắc sắc không không/ Thị thành bắt bí mấy ông nông quèn” (Đô thị hóa - tr.22). Cũng một kiếp người cả, sao nơi này lại nỡ bắt bí nơi kia, người này lại nỡ đối xử với người khác thiếu công bằng như thế (!?)
Một trong số những bài trong tập thơ này mà tôi thích nhất là bài Qui luật. Bài thơ được viết theo thể lục bát. Cảm xúc của người thơ đã vượt qua những rung động bên ngoài và được đẩy đến cung bậc của những suy tư mang tính triết lý cao: “Ngập ngừng trái chín. Và rơi.../ Buồn tênh mắt lá khép xuôi trở màu/ Vô cùng cao, tận cùng sâu/ Không gian chới với hai đầu cách xa/ Lìa cành lá đỏ rơi. Và.../ Cây trơ trọi đứng đêm qua, vội ngày. Mầm lên nhức nhối từng giây/ Lại trĩu quả lá xanh cây ngút trời/ Ngập ngừng trái chín. Và rơi.../ Tôi ngồi hứng hết một đời... chửa xong”.
Tưởng như chỉ là chuyện cây, lá, quả nhưng phía sau lại là chuyện con người, cuộc đời. Ở bài thơ này, tác giả đã có ba lần “đổ đèo” rất ngoạn mục, hai lần với hai chữ “Và rơi”, còn một lần chỉ với mỗi một chữ “Và”. Nhưng trong cả ba lần “đổ đèo” ấy, câu thơ đều được kết thúc bằng dấu ba chấm (...) biểu hiện sự không bao giờ ngưng nghỉ của lẽ vô thường hay qui luật muôn đời: sinh - lão - bệnh - tử.
(1) Tập thơ của Nguyễn Hoài Nhơn, NXB Hội Nhà văn, 2009
Đỗ Ngọc Yên