Các thầy được gọi là giáo sư có nhiều loại. Khá đông là chính trị phạm được ân xá sau 1936 như Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt hoặc là trí thức, văn nghệ sĩ muốn sống tự do trong cảnh sông Hương, núi Ngự như Tạ Quang Bửu, Nguyễn Đỗ Cung, Hoài Thanh…
Tôi ở trọ gần Đập Đá, Chế cùng vợ con thuê ở khu Vĩ Dạ gần đó.
Lương tháng cũng tạm được, tuỳ thuộc vào số giờ dạy, 3 tháng hè không có lương. Tôi chưa có gia đình thì sống thoải mái. Chế bị gánh nặng gia đình, chưa hết tháng đã hết tiền. Anh hay phải chạy sang tôi giật tạm ít tiền. Cứ thế đến khi anh rời Huế trước tôi. Chúng tôi giao lưu với nhau rất hợp, có lẽ do cùng thế hệ, tuổi gần nhau.
Bẵng đi hàng chục năm sau, lại có dịp gặp nhau ở Hà Nội sau ngày giải phóng. Đặc biệt trong công tác sách báo đối ngoại, tôi thường thảo luận với anh và Tế Hanh về vấn đề giới thiệu văn học ta ra nước ngoài, đặc biệt khi biên soạn bộ Tuyển tập văn học Việt Nam tiếng Pháp, 2.000 trang, một bộ sách có giá trị tuyên truyền đối ngoại vào thời chống Mỹ. Lúc nào anh cũng có ý kiến độc đáo và dứt khoát. Còn nhớ có những khi anh đi họp về khuya, ghé nhà tôi ở Hàng Than, ngủ lại, đó là dịp chúng tôi bàn tán đủ mọi vấn đề.
Lần cuối cùng tôi gặp anh Chế là sau khi giải phóng miền Nam. Xuống sân bay Tân Sơn Nhất, tôi được anh Mai Quốc Liên, bạn vong niên thân thiết của Chế đón, rồi đi xe thổ mộ đến Viên Tĩnh viên, nhà Chế ở cùng vợ con. Vợ Chế là nhà văn Vũ Thị Thường, nhà ở ngoại ô Sài Gòn. Đi đường, qua chợ, anh Liên dừng xe, mua con gà xách đi. Anh bảo: “Anh Chế vẫn nghèo như xưa, mua gà để có cái nhậu”. Nhà anh đơn sơ, được cái có vườn, chưa có điện thoại. Lương hai vợ chồng 11 ngàn đồng khi lương công nhân dệt hai vạn đồng.
Dĩ nhiên, cuộc hội ngộ năm ấy để lại cho tôi những ấn tượng khó quên.
Anh Chế qua đời vào tuổi kém 1 năm thì “cổ lai hy”. Với tính cách của anh, anh được nhiều người yêu quý, dĩ chí ngưỡng mộ và cũng không hiếm kẻ ghét, dĩ chí căm thù. Nhưng không ai không công nhận anh là một nhà thơ Việt Nam hiện đại hàng đầu. Từ năm 16 tuổi đã có Điêu tàn, cùng Quách Tấn, Yến Lan, Hàn Mặc Tử thành lập nhóm thơ Bình Định và trường thơ Loạn. Anh luôn đổi mới để tự vượt mình. Bản thân tôi thích thơ Chế trước Cách mạng và thơ di cảo, tùy bút. Thơ Cách mạng và kháng chiến của anh sôi nổi, nhưng tôi cảm thấy lý trí hơi át cảm xúc. Phải chăng do ảnh hưởng của Valery? Mai Quốc Liên có công bố một số thư riêng của Chế (Hồn Việt 2003). Tư liệu rất quý để hiểu thêm một tâm tư nhà thơ luôn băn khoăn tìm tòi.
- Những ý nghĩ sâu sắc, lạ lùng cho tới nay chưa thấy ai nói thế và tất nhiên còn cần phải ngẫm kỹ xem, nhưng dù sao đó là nhận xét của người đọc nhiều, nghĩ nhiều (có lẽ đọc nhiều vào loại số một ở nước ta). Chẳng hạn, về Đỗ Phủ, Lý Bạch: “Mình đã đọc Đỗ Phủ rồi, đã có ý, vĩ đại, “rất” là đằng khác. Nhưng về thơ thì thua Lý Bạch. Đánh giá theo con mắt hiện đại và Tây phương thì Lý Bạch vẫn hơn. Lý có những phần đời của Đỗ, Đỗ không có phần “siêu” của Lý. Cần lưu ý là hàng ngàn năm nay, Trung Hoa, Việt Nam vẫn xem Đỗ hơn Lý. Nguyễn Du viết về Đỗ: Thiên cổ văn chương thiên cổ sự (văn chương nghìn đời, bậc thầy nghìn đời). Đánh giá về Ngô Thì Nhậm và Nguyễn Trãi cũng lạ lùng: “Thơ Nguyễn Trãi hay hơn, đời Nguyễn Trãi thâm hơn, nhưng vai trò lịch sử thì Ngô Thì Nhậm lớn hơn”. Vì sao? Có lẽ Chế nghĩ đến công lao cụ thể của Ngô trong nước cờ Tam Điệp, trong trận thắng Thăng Long thần tốc, đặc biệt là chiến dịch ngoại giao tiếp theo, ngăn Càn Long động binh 9 tỉnh trả thù!
- Những năm ấy Chế làm việc rất hăng hái: viết tựa, làm thơ hoạt động văn học… Chế ủng hộ đổi mới, dân chủ nhưng phê phán cực đoan, “nóng ruột ham ăn” làm hại đổi mới. Chế lo cho anh em đi nước ngoài, in sách.
- Những triết lý của Chế về nhân tình, về cuộc đời có một chút gì chua chát trong cái biện chứng pháp tâm lý về yêu và ghét: Thường là người yêu nhau mới không dám giúp nhau. Còn kẻ đối thủ lại hay cao đạo. Chế nóng nảy nên “cừu nhân mãn thiên hạ”, Chế phải chống chọi, như cái “triết lý” này cũng hay: “Khi người ta ném đá ở chỗ mình đứng, mình có ở đó đâu”. Chế Lan Viên ra đi trong túng thiếu và lâm trọng bệnh. Anh để lại một gia tài thơ lớn. Qua thể nghiệm một cuộc đời phong phú, Chế có một nhận xét thực tế mà sâu sắc: Chuyện gì ở đời cũng là “tương đối luận”, “đi cũng tốt mà chưa chắc đã tốt, không đi là uổng mà có khi lại hay”… Anh rút ra phương châm: Làm hết sức mình, chấp nhận thành bại, không bận tâm đến khen chê!
Hữu Ngọc