Hút thuốc lá (kể cả hút thuốc lá thụ động) là nguyên nhân của trên 80% ung thư biểu mô phế quản phổi dạng biểu bì hoặc tế bào nhỏ. Người không hút thuốc thường bị ung thư dạng biểu mô tuyến. Sự kết hợp giữa khói thuốc lá và bụi thạch anh là những tác nhân gây ung thư mạnh. Ngoài thạch anh còn nhiều tác nhân có thể gây ung thư khác như: crôm, nicken, asenic, ô nhiễm không khí và hơi radon.
Những triệu chứng
Các triệu chứng như: ho, ho ra máu, chán ăn, sụt cân, tổn thương thấy được trên phim X-quang phổi là những triệu chứng thường hay gặp nhất.
Ho: nhiều khi là triệu chứng lâm sàng đơn độc xảy ra trên 75% các trường hợp. Phần lớn các tổn thương gây ra ho đều nằm ở các phế quản lớn, chính sự kích thích và xuất tiết đã gây ra ho. Ho thường kết hợp với khạc ra đàm, mức độ khạc đàm tùy thuộc vào mức độ bội nhiễm trên khối u. Ho ra máu: triệu chứng báo động đáng lo ngại nhất ở hầu hết các bệnh nhân và là triệu chứng bắt buộc bệnh nhân phải đi khám bệnh.
Đau ngực: gần 1/2 số bệnh nhân bị ung thư phổi đều than đau ngực với bác sĩ ngay từ lần khám đầu tiên. Triệu chứng này thường được mô tả dưới cảm giác đau nặng nề. Nếu đau ngực nhiều và liên tục là triệu chứng báo hiệu một dự hậu rất xấu cho bệnh nhân bởi vì đó là dấu hiệu trực tiếp của hiện tượng xâm lấn vào xương và dây thần kinh liên sườn của khối u. Dấu hiệu đau của vai có thể là triệu chứng của khối u phổi dạng Pancoasts.
Khó thở: bệnh nhân thường thở nhanh và ngắn, một vài trường hợp có hiện tượng khò khè khi khối u lớn làm tắc nhẽn khí quản.
Tràn dịch màng phổi: có thể xảy ra, tràn dịch màng phổi tái phát nhanh sau khi chọc hút là dấu hiệu xấu biểu hiện cho tình trạng di căn của màng phổi. Dịch màng phổi có màu là dấu hiệu nghi ngờ di căn trực tiếp của khối u vào màng phổi. Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên xảy ra vào khoảng 5% các trường hợp và là dấu hiệu của việc lan rộng của khối u vào trung thất. Xạ trị có thể cho kết quả tốt ở khoảng một nửa số bệnh nhân.
Ngón tay hình dùi trống: hay xảy ra ở những bệnh nhân bị u phổi loại carcinoma tế bào gai. Dấu hiệu ngón tay dùi trống có thể mất đi nhanh chóng sau khi cắt bỏ khối u. Triệu chứng phì đại xương khớp có thể gặp ở 4 - 12% các bệnh nhân. Những tổn thương này bao gồm cả tạo xương thường xảy ra ở đầu xa của các xương dài. Dấu hiệu viêm bao hoạt dịch mãn tính có thể là nguyên nhân đưa đến việc đau khớp và dễ chẩn đoán nhầm với thấp khớp. Các triệu chứng này thường mất đi nhanh chóng khi khối u được cắt bỏ.
Khàn tiếng: chiếm tỉ lệ từ 1 - 8% số bệnh nhân bị ung thư phổi và thường là kết quả của hiện tượng xâm lấn trực tiếp vào dây thần kinh quặt ngược của khối u. Di căn các hạch bạch huyết vùng cổ xảy ra từ 15 - 20% số bệnh nhân và nếu sờ thấy khối u trên cơ scalene thì chắc chắn đến 85% các trường hợp là có khối u. Triệu chứng khó nuốt xảy ra từ 1 - 5% số bệnh nhân và là dấu hiệu chỉ ra rằng khối u đã xâm lấn trực tiếp vào thực quản. Triệu chứng gan to xảy ra khi có di căn gan, khoảng 35% bệnh nhân chết vì di căn gan và 25% vì di căn xương. Hiếm gặp hơn là tình trạng tràn khí màng phổi khi khối u ăn làn ra ngoài màng phổi tạng.
Những triệu chứng gây ra do hoóc-môn: các ung thư biểu mô của phế quản thường gây ra những rối loạn về nội tiết như: cường chức năng của tuyến thượng thận, tăng canxi máu và hội chứng carcinoid. Biểu hiện thường gặp nhất của những rối loạn nội tiết trong ung thư phổi là hội chứng Cushing (gây ra bởi cường vỏ thượng thận) thường gặp trong tổn thương ung thư dạng tế bào lúa mạch.
Bệnh cảnh rối loạn thần kinh cơ: thường xảy ra trong 15% các trường hợp ung thư phế quản phổi, nhất là ung thư dạng tế bào lúa mạch. Bệnh cảnh lâm sàng thường được chia ra: loại có nguồn gốc từ cơ: viêm đa cơ; loại có nguồn gốc thần kinh: mất cảm giác và vận động tự chủ. Thoái hóa vùng vỏ não và đường dẫn truyền tủy sống là nguyên nhân của rối loạn thần kinh cơ gặp ở ung thư biểu mô của phổi.
Những xét nghiệm cần làm
X-quang phổi: thông thường là hình ảnh của một khối u xuất phát từ vùng rốn phổi hoặc ngoại vi là dấu hiệu đặc trưng của carcinoma phổi. Ở một số bệnh nhân khác có thể thấy hình ảnh thâm nhiễm của phổi có hoặc không hình ảnh tạo hang. Hình ảnh tràn dịch màng phổi. Hình ảnh cơ hoành bị dâng lên cao trong tình trạng liệt thần kinh hoành. Hình ảnh tổn thương của xương sườn hoặc các xương dài do di căn. Có thể thấy hình ảnh xẹp phổi trong trường hợp có tắc nghẽn của các phế quản. Một dạng tổn thương khác là thấy hình ảnh khối u ở ngoại vi với bờ mềm mại, góc nhọn. Phần lớn các trường hợp bệnh nhân hoàn toàn không có triệu chứng gì cả và hình ảnh khối mờ trên phim X-quang là triệu chứng đầu tiên được phát hiện trên phim chụp kiểm tra thường quy. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp không có cả triệu chứng X-quang, trong vòng 10 năm tại bệnh viện Mayo đã có 54 bệnh nhân bị ung thư phổi mà hoàn toàn không hề có một biến đổi nào trên phim X-quang. Một kỹ thuật X-quang khác có thể được dùng: kỹ thuật X-quang chủ động còn gọi là kỹ thuật quét nhằm tìm kiếm bằng chứng di căn ở gan, não, xương.
Chụp cắt lớp bằng vi tính: kỹ thuật này rất hữu ích trong việc xác định độ xâm lấn của khối u, cũng như đánh giá mức độ di căn ở các cơ quan khác như: tuyến thượng thận. Ngoài ra nó còn được sử dụng để phân loại giai đoạn của ung thư.
Sinh thiết và nghiên cứu về tế bào học: có thể tìm tế bào học qua đàm, qua soi phế quản, qua sinh thiết phế quản, chải rửa phế quản. Với những kỹ thuật này cho phép định danh tế bào học trong 90 - 95% các trường hợp. Tuy nhiên, với các khối u ở ngoại vi việc chẩn đoán xác định chỉ vào khoảng 60%.
Sinh thiết xuyên thành ngực bằng kim: với việc vô cảm tại chỗ, việc sử dụng kim để sinh thiết xuyên thành ngực có thể giúp ích cho chẩn đoán những trường hợp ung thư phổi và những sang thương khác không thể chẩn đoán xác định được bằng nội soi phế quản.
Nội soi trung thất: dùng một đường rạch nhỏ nơi hõm ức trên và đưa máy soi vào dọc theo mặt trước của khí quản. Thông thường những tổn thương của phế quản gần hay cho di căn vùng trung thất và các tổn thương vùng ngoại vi ít khi cho di căn trung thất trong giai đoạn sớm. Một số phẫu thuật viên thích dùng đường mổ ngắn phía trước hoặc bên để nội soi trung thất vì qua đường này có thể quan sát cả vùng rốn phổi. Hơn thế nữa với đường này, có thể mở lớn ra để cắt phổi nếu khối u còn khả năng cắt được. Một số trường hợp, nội soi trung thất có thể có biến chứng chảy máu nhiều khi đặt ống soi hoặc sinh thiết, chính vì vậy với đường mổ này cho phép kiểm soát và cầm máu khi có biến chứng.
Mở ngực thám sát: trong một số trường hợp, việc mở ngực để thám sát cũng được đặt ra khi có tràn dịch màng phổi mà không tìm thấy tế bào ác tính. Màng phổi thành, màng phổi tạng, cơ hoành, màng ngoài tim được quan sát kỹ với nội soi trung thất bằng ống mềm qua đường mở ngực nhỏ.
Chọc dò và sinh thiết tủy xương: giúp cho chẩn đoán tế bào học trong một số trường hợp ung thư phổi, đặc biệt là ung thư biểu mô dạng tế bào lúa mạch. Tuy nhiên việc phát hiện di căn xương bằng kỹ thuật này thường thấp.
Điều trị ngoại khoa
Không thể phẫu thuật được cho bệnh nhân khi thấy có các dấu hiệu: di căn xa, tràn dịch màng phổi, hội chứng Horners, liệt dây thanh âm, liệt dây thần kinh hoành, hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên. Khi có các chống chỉ định phẫu thuật trên, bệnh nhân có thể được chỉ định điều trị tiếp tục bằng hóa trị và xạ trị.
Có khoảng một nửa bệnh nhân bị ung thư biểu mô của phổi khi đến bệnh viện đã có di căn xa. Do đó cũng chỉ có khoảng một nửa bệnh nhân mổ được. Trong số đó lại có 1/2 số bệnh nhân trong thời gian chuẩn bị mổ đã có di căn vào thành ngực làm cho số lượng bệnh nhân ung thư phổi có thể điều trị được bằng phẫu thuật giảm xuống. Trong số những bệnh nhân, nếu chưa có bằng chứng cụ thể của di căn xa hoặc ăn lan ra ngoài cấu trúc của phổi cũng được chỉ định phẫu thuật thăm dò. Trước khi mổ cần tìm các di căn xa như: não, xương, gan , hạch di căn, tuyến thượng thận… bằng CT-scan và các xét nghiệm sinh học.
Trong kỹ thuật cắt phổi, việc sử dụng máy khâu phổi để đóng mỏm cắt phế quản rất quan trọng, với cách khâu này ít khi thấy có dò phế quản sau mổ. Kinh nghiệm cũng cho thấy rằng việc khâu phế quản bằng kẹp kim loại tốt hơn là khâu bằng chỉ. Trước khi cắt phế quản bằng máy cần phải phẫu tích và cột hết các động mạch và tĩnh mạch đi vào phổi. Trong phần lớn các trường hợp cắt thùy phổi hoặc cắt phổi không điển hình, một hoặc hai ống dẫn lưu được đặt vào xoang màng phổi để dẫn lưu máu, dịch và khí là điều bắt buộc.
Ho xảy ra trên 75% các trường hợp