Có nhiều nguyên nhân gây bại não: nhiễm khuẩn trong thời kỳ mang thai như Rubella (sởi Đức), bệnh do virut cự bào, nhiễm toxoplasmosis, có thể gây tổn thương não của bào thai và gây bại não sau này. Thiếu ôxy não bào thai, xảy ra trong trường hợp nhau thai bị bóc tách khỏi thành tử cung trước khi sinh, có thể làm giảm lượng ôxy cung cấp cho bào thai. Trẻ sinh non nhẹ cân có nguy cơ mắc bệnh bại não nhiều hơn những trẻ sinh đủ tháng gấp 30 lần. Biến chứng trong quá trình chuyển dạ làm cho trẻ sơ sinh bị ngạt là nguyên nhân gây ra khoảng 10% các trường hợp bại não. Bất đồng nhóm máu Rh giữa người mẹ và bào thai có thể gây tổn thương não dẫn đến bại não. Những dị tật bẩm sinh, trẻ có những bất thường về cấu trúc não, mắc bệnh di truyền... đều làm tăng nguy cơ bại não.
Ảnh minh họa nguồn google. |
Có một số trẻ bị bại não mắc phải sau khi sinh, do tổn thương não bộ xảy ra trong hai năm đầu. Nguyên nhân phổ biến nhất của các tổn thương này là: nhiễm khuẩn não và chấn thương vùng đầu.
Có ba thể bại não
Bại não thể liệt cứng (Spastic cerebral palsy):có đến 70 - 80% số người bị mắc bệnh bại não thể liệt cứng có triệu chứng các cơ co cứng, cử động khó khăn. Nếu cả hai chân đều bị liệt cứng, trẻ rất khó khăn khi đi vì các cơ bó sát trong hông và chân làm cho hai chân chụm vào nhau và giao nhau tại đầu gối, kiểu như cắt kéo. Trường hợp chỉ một bên cơ thể bị liệt, tức là liệt cứng nửa người, thường là cánh tay bị liệt nặng hơn chân. Trường hợp nặng nhất là liệt cứng tứ chi, trong đó cả 2 tay, 2 chân và thân người bị liệt và cả các cơ môi miệng, lưỡi cũng bị liệt. Trẻ bị liệt cứng tứ chi thường bị chậm phát triển trí não...
Bại não thể loạn động (Dyskinetic cerebral palsy): khoảng 10 - 20% số trẻ mắc bệnh bại não là thể loạn động, ảnh hưởng toàn bộ cơ thể. Đặc trưng thể bệnh này là sự thay đổi thất thường của trương lực cơ lúc tăng, lúc giảm, thỉnh thoảng có những cử động không kiểm soát được, có thể là những cử động chậm và đau hoặc nhanh và giật giật. Trẻ mắc bệnh thường không có tư thế ngồi hoặc dáng đi bình thường. Do các cơ mặt và lưỡi bị ảnh hưởng, nên trẻ gặp khó khăn khi bú, nuốt và nói.
Bại não thể thất điều (Ataxic cerebral palsy): có khoảng 5 - 10% số trẻ bại não là thể thất điều. Bệnh làm cho trẻ không có khả năng cân bằng tư thế và phối hợp động tác. Trẻ bệnh đi với một dáng điệu không vững. Trẻ rất khó thực hiện những cử động cần phải có sự phối hợp chính xác như viết chữ.
Bệnh bại não được chẩn đoán chủ yếu dựa vào sự đánh giá khả năng cử động của trẻ. Một số trẻ mắc bệnh bại não có trương lực cơ yếu nên nhìn chúng có vẻ như bị nhẹ cân. Trái lại một số trẻ khác có trương lực cơ tăng nên trông chúng có vẻ rắn chắc, hoặc trương lực cơ thay đổi, lúc tăng, lúc giảm. Xét nghiệm: chụp cộng hưởng từ, chụp cắt lớp vi tính, siêu âm có thể phát hiện được nguyên nhân gây bại não.
Phương pháp điều trị
Việc điều trị và chăm sóc trẻ bại não đòi hỏi phải có một nhóm các chuyên gia gồm các bác sĩ nhi khoa, vật lý trị liệu và phục hồi chức năng, phẫu thuật chỉnh hình, mắt, các chuyên gia về ngôn ngữ, những người hoạt động xã hội và các nhà tâm lý học.
Vật lý trị liệu được thực hiện ngay sau khi chẩn đoán bại não, nhằm làm tăng kỹ năng vận động của trẻ như ngồi, đi, cải thiện cơ lực và phòng ngừa sự co kéo biến dạng cơ. Có thể sử dụng các dụng cụ như nẹp, máng hoặc bó bột để phòng ngừa co rút cơ và cải thiện chức năng của chân, tay. Phẫu thuật chỉnh hình để làm dài cơ bị bệnh trong trường hợp tình trạng co rút cơ quá nặng. Đối với trẻ có tình trạng co cứng hai chi dưới nặng, cần phẫu thuật cắt bỏ chọn lọc một số nhánh thần kinh ở lưng chi phối hoạt động chi có thể làm giảm vĩnh viễn tình trạng co cứng cũng như cải thiện khả năng vận động như ngồi, đứng, đi. Phẫu thuật này thường tiến hành khi trẻ được 2 - 6 tuổi.
Dùng thuốc làm giảm bớt mức độ co cứng của cơ và làm giảm các cử động bất thường.
Chẩn đoán hình ảnh tổn thương bại não. |
Lời khuyên của bác sĩ
Dựa vào các nguyên nhân gây bại não nói trên, chúng ta có thể thực hiện các biện pháp để phòng tránh bệnh bại não cho trẻ như sau: