Ung thư gan mật được chia thành 2 nhóm: Tổn thương nguyên phát và thứ phát. Tổn thương nguyên phát bao gồm các khối u có nguồn gốc từ tế bào gan, từ tế bào đường mật, từ tổ chức liên kết (ít gặp). Ung thư thứ phát thường gặp nhất là do di căn từ đại trực tràng, các tổn thương khác có thể di căn vào gan như ung thư tụy, dạ dày, thận, phổi, vú...
Điện quang can thiệp ngày càng có vai trò lớn trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý ung thư, đặc biệt là ung thư gan, mật. Trong các phương pháp điều trị bằng điện quang can thiệp, người ta có thể chia thành các nhóm: điều trị qua đường nội mạch (embolization) và các phương pháp phá hủy u gan tại chỗ (local ablation). Ngoài ra, điện quang can thiệp còn giúp giảm triệu chứng tắc mật (dẫn lưu đường mật hoặc đặt stent đường mật).
Điều trị u gan qua đường nội mạch
Nút động mạch hoá chất điều trị ung thư gan: Nút động mạch gan hoá chất (Transcatheter arterial chemoembolization: TACE), nguyên lý của TACE là nút động mạch nuôi khối u, khi đó, khối u không được nuôi dưỡng sẽ bị hoại tử. Ngoài ra, hóa chất giải phóng từ hạt nút vào khối u sẽ làm khối u bị tiêu diệt nhanh hơn.
Hiện nay, trong thực hành lâm sàng, có thể kết hợp TACE với các phương pháp phá hủy khối u tại chỗ như đốt sóng cao tần (RFA), tiêm cồn tuyệt đối (PEI) hay acid acetic (PAI) làm tăng hiệu quả tiêu diệt khối u, kéo dài đáng kể thời gian sống thêm của người bệnh.
Nút mạch ung thư gan bằng hạt vi cầu (DC Beads): Cơ chế hoạt động của hạt vi cầu cũng tương tự như TACE, sau khi đầu vi ống thông được luồn chọn lọc vào mạch nuôi khối u, hạt DC beads đã pha với hóa chất (Doxorubicin hoặc Farmorubicin) sẽ được bơm làm tắc các động mạch này. Các hạt Beads có vai trò gây tắc vĩnh viễn các mạch máu gây thiếu máu khối u, đồng thời quá trình hóa chất tách khỏi các hạt vi cầu tập trung vào khối u một cách từ từ (trong khoảng 14 ngày) giúp cho tập trung với nồng độ cao nhất hóa chất vào khối u.
Tại Việt nam, phương pháp này đã được triển khai ở một số bệnh viện lớn (Bạch Mai, Việt Đức, 108, Chợ Rẫy...). Hiện đang trong quá trình đánh giá về hiệu quả và khả năng áp dụng một cách thường quy.
Nút mạch u gan bằng hạt phóng xạ (Radioembolization): Sự ra đời của các hạt vi cầu gắn đồng vị phóng xạ Y90 bơm vào mạch máu nuôi khối u được coi như là phương pháp “xạ trong” giúp cho điều trị hiệu quả các khối u gan. Hiện nay, trên thế giới có 2 loại chính là SIR-Spheres microspheres (Australia) và TheraSphere (Canada). Kích thước các hạt này từ 20-35 µm.
Sau khi bơm các hạt gắn đồng vị phóng xạ vào mạch máu nuôi khối u, các hạt phóng xạ sẽ nằm ở giường mao mạch khối u, sau đó sẽ phát ra tia β, liều lượng đạt được khoảng 100-150Gy đảm bảo tiêu diệt hết các tế bào ung thư, Yttrium-90 có thời gian bán rã khoảng 64 giờ, đồng vị phóng xạ này phát ra tia β có đường kính bức xạ khoảng 2 - 3mm, do đó, nó chỉ phá hủy tế bào khối u và bảo tồn được tối đa nhu mô gan lành.
Điều trị u gan bằng phá huỷ tại chỗ
Phá huỷ tổn thương u gan tại chỗ có thể làm qua da (chủ yếu), qua mổ nội soi hoặc qua mổ mở (ít gặp). Hiện nay, có rất nhiều phương pháp từ đơn giản, rẻ tiền như tiêm cồn tuyệt đối (PEI: Percutaneous Ethanol Injection), tiêm acid acetic (PAI) đến các phương pháp hiện đại và chi phí cao hơn như đốt bằng sóng cao tần (Radiofrequency ablation - RFA), vi sóng (Microwave ablation), áp lạnh (Cryoablation)..., trong đó RFA là đang được sử dụng nhiều nhất.
ThS.BS. Ngọc Lâm