Một số loại thức ăn thường gây dị ứng, có thể kể: sữa bò, trứng, lạc, vừng, hạt quả cứng, kiwi, táo, cà rốt, cá, nghêu, sò, tôm, cua. Mỗi độ tuổi hay bị dị ứng với một loại thức ăn nhất định, có thể kéo dài nhưng có thể hết ở một độ tuổi nhất định. Một người cũng chỉ dị ứng với một hay vài loại thức ăn chứ không dị ứng với tất cả. Trẻ 1 - 7 tuổi thường dị ứng với hạt cứng, trẻ 6 - 36 tháng tuổi hay dị ứng với hạt mè, trẻ 6 - 24 tháng tuổi thường dị ứng với lòng trắng trứng gà, sữa bò, lúa mì, đậu nành; đa số sẽ khỏi khi lên 2 - 7; tuổi, người trưởng thành hay dị ứng với nghêu, sò, tôm, cua, cá.
Biểu hiện dị ứng thường thấy
Nhẹ và vừa: ở da xuất hiện mày đay, đỏ bừng, phù mạch. Ở hệ tiêu hóa có biểu hiện nôn mửa, đau quặn bụng, tiêu chảy. Ở hệ hô hấp có biểu hiện viêm mũi, hen phế quản, phù thanh quản.
Nặng: có thể bị sốc phản vệ. Đa số có phản ứng sốc phản vệ một pha xuất hiện ngay sau khi ăn. Có khoảng 6% trường hợp có phản ứng sốc phản vệ 2 pha, pha sau thường xảy ra muộn (4 - 12 giờ) sau khi ăn, có thể là do sự hấp thu chậm các dị nguyên. Trong số có phản ứng phản vệ 2 pha thì có khoảng 50% rất nặng, có thể dẫn tới tử vong.
Dùng thuốc trong dị ứng thức ăn
Dùng thuốc nhằm điều trị các triệu chứng dị ứng, quan trọng nhất là chống các phản ứng phản vệ, Thuốc thường dùng là epinephrin, kháng histamin, chống co thắt phế quản, corticoid hít hay toàn thân.
Epinephrin:
Có vai trò nâng cao huyết áp, chống suy tim, trụy mạch cấp. Cần dùng sớm trong vòng ít phút sau khi phản ứng dị ứng xảy ra. Nếu dùng muộn sẽ gia tăng tỉ lệ bị sốc phản ứng phản vệ 2 pha và gia tăng tỉ lệ tử vong. Nếu phẩn ứng phản vệ nặng nên dùng thuốc tại bệnh viện, có sự theo dõi chặt chẽ. Những người bị dị ứng thức ăn với triệu chứng suy hô hấp, hạ huyết áp, bất tỉnh cần dùng ngay epinephrin càng sớm càng tốt trong vòng 8 giờ vì đây cũng là thời gian thường xảy ra phản ứng phản vệ 2 pha, đồng thời phải theo dõi liên tục trong 24 giờ.
Để phòng phản ứng phản vệ pha 2 (pha muộn) còn có thể dùng prednisolon uống mỗi ngày 1 - 2mg/kg thể trọng trong 3 ngày liền.
Kháng histamin:
Chọn dùng các kháng histamin có tác dụng nhanh. Có thể dùng các kháng histamin thế hệ cũ như: chlopheiramin, alimerazin, cycloheptadin, meclizin, cyclizin. Riêng với trẻ em, không được dùng promethazin vì thuốc làm trẻ suy hô hấp khi ngủ, dẫn tới tử vong đặc biệt không dùng cho trẻ em mất dịch vì dễ bị hội chứng Reye. Lưu ý kháng histamin thế hệ cũ gây ngủ gà, làm gia tăng các thuốc trầm cảm, thuốc trầm suy hệ thần kinh trung ương, khi tiêm với liều cao có thể gây tụt huyết áp.
Có thể dùng các kháng histamin thế hệ mới (cetirizin, acrivastin, loratidin). Không được dùng terfenadin, asrtemisol vì hai thuốc này gây xoắn đỉnh, nhiều nước và nước ta đã cấm. Các thuốc khác tuy không gây xoắn đỉnh nhưng cũng phải dùng cẩn thận: không dùng cho trẻ dưới 2 tuổi, riêng cetirizin, loratidin không dùng cho trẻ dưới 6 tuổi, thận trọng khi dùng cho người có chức năng gan suy giảm.
Thuốc chống co thắt phế quản:
Đa số người bị dị ứng thức ăn đặc biệt người bị bệnh hen thường có biểu hiện phù thanh quản. Thông thường phải dùng các thuốc chủ vận beta-2adrenegic như: salbutamol, salmeterol dưới dạng hít hay dùng dưới dạng hít phối hợp với các corticoid hít (như sereride). Nếu người bệnh khó thở nặng cần dùng oxygen.
Lưu ý các các thuốc chủ vận beta-2adrenegic làm tim nhanh loạn nhịp, trụy mạch nếu uống với liều cao, không dùng dưới dạng uống, ngay với dạng hít cũng chỉ dùng với liều vừa đủ.
Corticoid uống hay toàn thân:
Corticoid hít dùng để giảm cơn co thắt (dùng một mình hay dùng phối hợp với chủ vận beta-2adrenegic như: salbutamol, semeterol), corticoid uống dùng để phòng phản ứng phản vệ muộn như nói ở hai phần trên. Corticoid uống có nơi đưa vào thường quy, có nơi không đưa vào thường quy chống dị ứng thức ăn.
Về phòng dị ứng: nguyên tắc chung là tìm các thức ăn gây dị ứng theo nguyên tắc loại trừ dần sau đó không dùng loại thức ăn đó nửa. Riêng trứng khi dùng để chế vắcxin có thể sinh ra các dị nguyên và trẻ bị dị ứng với trứng cũng sẽ bị dị ứng với loại vắcxin này.
Thuốc dùng trong dị ứng thức ăn không khó kiếm nhưng vì không chuẩn bị sẵn sàng và không chẩn đoán được dị ứng sớm nên thường bị dùng muộn, đây là nhược điểm làm hạn chế hiệu quả, cần được khắc phục.