Đền Mõ và giai thoại tình yêu thăm thẳm tiếng mõ xưa dội về

08-01-2016 18:42 | Văn hóa – Giải trí
google news

SKĐS - Người ta kể, hơn 700 năm trước có một nàng công chúa về đây lập đền tụng kinh gõ mõ. Nàng công chúa buồn vì một mối tình không tới với một chàng dũng sĩ là người anh kết nghĩa của mình.

Người ta kể, hơn 700 năm trước có một nàng công chúa về đây lập đền tụng kinh gõ mõ. Nàng công chúa buồn vì một mối tình không tới với một chàng dũng sĩ là người anh kết nghĩa của mình. Để quên đi nỗi muộn sầu, nàng lập ấp bên sông Văn Úc và gọi dân tứ phương tụ về cấy mạ, trồng dâu. Những doi đất ngày một màu mỡ dưới bàn tay người làm ăn chăm chỉ. Nàng đứng ra lo mọi chuyện dân làng và dùng tiếng mõ làm hiệu lệnh ra đồng, hay hội hè tế lễ. Tiếng mõ một ở quá thì đi ra đồng. Tiếng mõ hai ở chùa thì về ăn uống. Hay bất ngờ dồn dập mỗi khi có dịch nạn tràn đến. Đó là âm thanh tiếng lòng thơm thảo của nàng công chúa ban tặng cho dân làng bên sông. Nhưng mỗi khi đêm về nàng lại gõ mõ tụng kinh sám hối để mong thoát khỏi sự thống khổ và bi ai của một cuộc tình thầm kín. Âm thanh trên tay người trở thắc thỏm với những ngôi sao lấp lánh trên trời. Tiếng tình yêu vợi dần trong niềm vui cuộc sống an lành với dòng nước trôi ra biển cả. Đó là sự siêu thoát. Dần dần tiếng mõ gọn gàng đều đắn sáng trong. Biển đã rửa sạch mọi nguồn cơn. Từ đó nàng công chúa đã trở thành vị Thành hoàng làng và ai cũng gọi nàng là Bà Chúa Mõ...

Câu chuyện ngỡ như cổ tích nhưng lại là có thật. Khi nghe người già của làng nói, nàng công chúa ấy tên là Quỳnh Trân, con gái của vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Nàng ra đời trong giấc mộng của vua cha. Nàng là do công chúa Ngọc Hoa con Ngọc Hoàng đầu thai, hóa kiếp bị đầy xuống trần gian nên nàng đẹp tuyệt trần. Người xưa còn tả vẻ đẹp của Quỳnh Trân rằng, lúc sinh ra sắc như bình bạc, mặt tựa gương báu, thân thể mang vẻ hoa nở sáng trăng; dung nghi giống như xuân sơn, thu thủy, vẻ người đoan chính. Công chúa nhà Trần được đặt tên là Ả nương Quỳnh Trân. Vẻ đẹp ấy làm bao chàng trai mê mệt. Nhưng rồi mối tình đã nảy sinh giữa nàng và dũng tướng Trần Khánh Dư, con nuôi của vua cha. Trong khi đó nàng được gả cho con trai của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Mối tình oan trái đó bị phát hiện. Nàng bị giam vào lãnh cung. Tướng Trần Khánh Dư bị cách chức, tịch thu tài sản và phải về quê sinh sống.

Sau này em trai nàng là Trần Nhân Tông lên ngôi. Vào năm 1283 nàng được ra khỏi lãnh cung đi du ngoạn và xin xuất gia tu hành tại bãi sông Văn Úc và dựng lên ngôi làng Nghi Dương, khởi nguồn thành xã Ngũ Phúc cách đây hơn 700 năm. Chính ngôi chùa mà nàng Quỳnh Trân ngày đêm tụng kinh gõ mõ được gọi là chùa Mõ và ngôi đền mà người dân Ngũ Phúc dựng để thờ nàng sau khi mất (năm 1308) cũng được gọi là đền Mõ. Hiện nay đền Mõ còn lưu giữ 11 bản sắc phong qua các triều đại phong kiến, để đền đáp công trạng của công chúa Quỳnh Trân đối với dân chúng bên sông Văn Úc. Trong đó có sắc của vua Trần Anh Tông (1283-1314) phong nàng là “Trần Triều A Nương Thiên Thụy Quỳnh Trân công chúa”. Kèm theo đó, vua còn ban cấp 300 quan tiền cho các xã quanh vùng rước sắc về Nghi Dương, lập đền thờ.

Sự linh thiêng của đền Mõ gắn liền với tập tục sinh hoạt và sự phát đạt của dân làng Ngũ Phúc. Nhưng có lẽ điều dị biệt của đền và chùa Mõ với những nơi khác là tính thượng võ được phát huy ở những trò chơi cầu mưa, cầu phúc, cầu lộc. Hàng năm vào 12/2 âm lịch, sau khi rước bài vị Chúa Mõ ra, lễ hội vật của những cháu trai “đồng tử” tuổi không quá 14, đóng khố để trần, diễn lại tích “mục đồng xin nước” do chính bà Chúa Mõ nghĩ ra và tổ chức cầu mưa thuận gió hòa cho người nông dân làng Ngũ Phúc. Và thật kỳ lạ, cứ sau lễ hội không lâu là trời mưa đổ xuống, cho dù trước đó nắng còn đang tưng bừng cùng những trò chơi và ca hát của dân làng. Ấy là điều khó lý giải của vượng khí tâm linh của đền Mõ. Cùng với đó đền và chùa Mõ còn hàng ngày có sự hiện diện của Chúa Mõ là nét xanh tươi của cây hoa gạo, do chính bà đã trồng ngay từ khi mới dựng chùa. Thơm thảo ẩn dụ cho sự bù đắp của Bà Chúa Mõ đối với người nông dân ngày đêm phải vật lộn với sự khắc nghiệt của thiên nhiên và thiên tai vào những năm tháng rét mướt, mưa bão, đói kém. Một cây gạo từ bi.

Những vần thơ bên cây gạo hơn 700 tuổi

Thật tình cờ ai đó đã khắc họa những vần thơ bên cây gạo của dân làng Ngũ Phúc để ca ngợi tấm lòng cao cả của bà Chúa Mõ. Lời rằng:“Bông trắng bay rợp trời. Hoa và hoa rực rỡ. Tình người luôn thắm đỏ. Gieo lộc đời sinh sôi”. Đối với dân khắp vùng, cây gạo cổ quanh năm xanh tốt đã đem lại sự bình an cho sự sống. Hồn bà còn quanh đây bảo vệ cho dân làng làm ăn thuận hòa. Mỗi lần bông hoa gạo bay trong gió biển thổi về rải khắp xóm thôn. Nắng tinh khôi và mây lững lờ trôi ra phía sông như những con tàu mây bông hiền hòa. Mưa đổ xuống bất ngờ. Mùa màng rỡ ràng trong niềm vui của lòng người Ngũ Phúc. Người ta truyền rằng, những đôi vợ chồng hiếm muộn chỉ xin Bà Chúa Mõ một ít vỏ cây gạo thần là hiệu nghiệm. Vì thế cây gạo thần này còn gọi là cây phúc. Bà hiện diện với dân làng như chưa hề rời xa. Tình yêu thương con người làm cho mảnh đất dựng đền hơn 700 năm qua luôn luôn ấm áp và trĩu nặng tình người.

Mõ hình cá trong đền.

Người ta đo được cây gạo cao tới 30 mét có lẻ. Gốc cây có đường kính hơn 2 mét. Ở nước ta không nơi nào có một cây gạo cổ đến thế và cao lớn như vậy. Nó trở thành Cây di sản chính vì lẽ đó. Trung tâm xác lập kỷ lục Việt Nam công nhận và tôn vinh cây gạo đền Mõ là cây nhiều tuổi nhất nước ta, với tuổi đời 733 năm. Thường vào cuối xuân, những tràng hoa tầng tầng lớp lớp đỏ rực như tấm áo cà sa khổng lồ choàng lên sân chùa. Nhìn từ xa ai cũng thấy rõ. Ấy là khi Bà Chúa Mõ hiện về với những trẻ mục đồng chơi trò lấy nước về đồng làm vào mùa lúa tháng 5. Nghĩ đến thế là lòng người Ngũ Phúc phơi phới niềm vui. Dân làng còn kể những năm chiến tranh chống giặc Mỹ bắn phá Hải Phòng, những đơn vị ra-đa và tên lửa đóng quân ở ngôi đền này và chính cây gạo cổ với tán rộng khắp vùng hàng trăm mét đã chở che cho những người chiến sĩ trú ẩn, tránh khỏi bom đạn của máy bay kẻ thù.

Người già trong làng đều nhớ đến hồn thơ của chí sĩ Nguyễn Thông, người con nổi tiếng của vùng trời Nam, khi qua đây đã hiểu thấu khí trời. Ông đã tìm ra cái thần thái và khí phách của nàng công chúa Quỳnh Trân, hiện diện qua cây gạo thần và phát hiện ra lẽ sống ở đây. Hồn thơ đậm chất thiền trong cõi vô thường: “Bao triều đại chìm vào quá khứ. Những đền đài, thành quách đã nên rêu. Cả những bậc quân vương từng ngạo nghễ. Chẳng để lại gì một nấm cỏ tiêu điều. Ta sống với nhân dân giữa xanh tươi đồng ruộng. Bảy, tám trăm năm như chớp mắt, sá gì. Hoa vẫn nở tháng ba từ dạo ấy. Thuở Quỳnh Trân công chúa rủ ta đi. Gốc có vững mới mong dân thờ cúng. Nén hương thơm, thơm ngát cả bốn mùa. Trăm trận bão có khi cành tan tác. Càng thương cụ từ già thao thức suốt đêm khuya”.

Tôi đang như bị hút hồn vào những vần thơ chan chứa nỗi đời của người chí sĩ ngày nào, thì bỗng như có tiếng đàn sáo rộn ràng bay đến. Tiếng phách đâu dồn dập cuốn bước chân tôi đi theo. Và...

Còn đó một chiếu chèo Ngũ Phúc

Đúng là vào chiều muộn cuối tuần, những đội chèo của làng vẫn hội tụ hát ca. Đó cũng là di sản của Ngũ Phúc như cây gạo cổ vậy. Người ta kể đó cũng là niềm vui mà bà Chúa Mõ ban cho. Ngoài những công việc đồng áng, người làng Ngũ Phúc còn hân hoan mừng vui vì thành quả lao động, với những làn điệu thân thương. Điệu “Lới lơ” bay bổng và rạo rực tình người. Cái quạt lụa màu hồng đang múa lượn trước mặt tôi. Đi theo tiếng hát, tôi gặp ông Lập, thành viên đội chèo thôn Xuân Đông, ông tâm sự, diễn chèo như thói quen sinh hoạt văn hóa, không thể thiếu trong dịp lễ hội, Tết đến xuân về. Ngày thì ra đồng, tối về dân làng Ngũ Phúc lại ngâm thơ thổi sáo xua tan hết muộn phiền. Ngày hội đền Mõ cũng vào thời khắc xuân ấm nắng hồng.

Người làng chèo thôn Đông nhớ, mỗi lần rải chiếu sân đền là ai cũng hát cầu mời khách vào hát: “Người về dọn quán bán hàng. Để tôi là khách qua đàng vào chơi. Mỗi người mỗi chốn mỗi nơi. Gặp nhau ta kết làm đôi vợ chồng...”. Ai cũng nghĩ đó là sự mong mỏi duyên phận và tình người mà Bà Chúa Mõ ban cho mỗi người bước chân đến đền để mơ về hạnh phúc và bội thu mùa màng. Bất chợt những bông hoa gạo đỏ rực rỡ như gió cuốn đậu lại sân đền. Tôi như mơ hồn Bà Chúa Mõ đang hiện về trong làn điệu chèo kết duyên.


Bài, ảnh: Vương Tâm
Ý kiến của bạn